Có thể nói, sau gần 20 năm thành lập và đi vào hoạt động, do quy mô tổ chức, địa bàn hoạt động gắn liền với dân cư, giao dịch thuận tiện nên chỉ trong thời gian ngắn, mô hình QTDND được cấp uỷ Đảng, chính quyền và nhân dân ở nhiều địa phương ủng hộ và quan tâm phát triển. Vì vậy đã mở ra một kênh chuyển tải vốn mới, đa dạng hoá các hình thức hoạt động tín dụng, từng bước góp phần xóa bỏ các tệ nạn như cho vay nặng lãi, hụi, họ ở địa bàn nông thôn. Kết quả hoạt động của hệ thống đã khẳng định chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đưa mô hình QTDND vào thực tiễn Việt Nam là đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân. Qua quá trình thí điểm thành lập, nhân rộng mô hình và thực hiện củng cố chấn chỉnh, đến nay hệ thống QTDND đã có những bước chuyển biến rõ rệt cả về số lượng và chất lượng. Nhìn chung, các QTDND hoạt động ổn định và đạt hiệu quả ngày càng cao, thực sự góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn nông thôn.
Bên cạnh những kết quả đạt được, với những thành công bước đầu, hoạt động của hệ thống QTDND cũng còn tồn tại một số yếu kém sau: i) Mục tiêu hoạt động, các nguyên tắc cơ bản của tổ chức tín dụng (TCTD) hợp tác vẫn chưa được quán triệt và phát huy ở tất cả các QTDND. Biểu hiện rõ nét nhất là một số QTDND cơ sở vẫn chạy theo động cơ kinh doanh đơn thuần, xa rời mục tiêu tương trợ, hỗ trợ thành viên dẫn đến nguy cơ chệch mục tiêu hoạt động. Một số nguyên tắc cơ bản như tự nguyện, tự trợ giúp, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm tại nhiều QTDND còn bị vi phạm. Đây là tồn tại lớn làm giảm đi sức mạnh của mô hình kinh tế hợp tác; ii) Các nội dung liên kết trong hệ thống QTDND còn quá ít, quá lỏng lẻo, chưa thực sự tạo ra sức mạnh hệ thống; iii) Hệ thống QTDND chưa thực sự an toàn, còn nhiều QTDND yếu kém, vi phạm các chỉ tiêu an toàn, chất lượng hoạt động chưa cao như vốn tự có thấp dẫn đến một số QTDND chưa đảm bảo được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; một số QTDND chất lượng tín dụng chưa cao, do chưa làm tốt công tác thẩm định khi cho vay và kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay; lợi nhuận của các QTDND nhìn chung tăng trưởng thấp và chưa thực sự bền vững; iv) Trình độ cán bộ và bộ máy điều hành của QTDND còn hạn chế, nhiều QTDND cán bộ nghiệp vụ chưa được đào tạo bài bản; v) Vốn tự có, trang thiết bị kỹ thuật, quy mô hoạt động, tiềm lực tài chính của các QTDND còn hạn chế ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh với các TCTD trên thị trường.
Chính vì những tồn tại nêu trên trong quá trình hoạt động là lý do giải thích vì sao rủi ro đạo đức xảy ra tại không ít QTDND cơ sở. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến hết năm 1998, tức là chỉ 5 năm sau khi hệ thống QTDND được thành lập và đi vào hoạt động đã có 17 cán bộ QTDND cơ sở có vi phạm đã bị xử tù từ án treo đến 20 năm tù giam, 45 cán bộ bị buộc thôi việc, với số tiền tham ô, chiếm đoạt lên tới 11.282 triệu đồng. Theo số liệu thống kê của Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) Việt Nam, nhiều QTDND cơ sở bị giải thể là do rủi ro đạo đức, cụ thể là cán bộ lãnh đạo, điều hành của quỹ vi phạm pháp luật. Trong số 38 QTDND cơ sở BHTG Việt Nam đã thực hiện chi trả, có hơn 1/3 số quỹ có cán bộ vi phạm pháp luật và các nguyên tắc, chế độ cho vay như cho vay sai đối tượng, sai mục đích, cho vay đảo nợ, cho vay ưu đãi, cho vay vượt giới hạn cho phép đối với cán bộ chủ chốt của QTDND cơ sở…Nghiêm trọng hơn, tại một số QTDND cơ sở cán bộ quản lý điều hành đã lợi dụng cương vị công tác tham ô, chiếm đoạt tài sản của QTDND cơ sở, dùng vốn của quỹ để cho vay phục vụ mục đích cá nhân đối với nhóm người là cán bộ điều hành QTDND cơ sở. Có những QTDND cơ sở dư nợ cho vay chủ yếu tập trung vào các đối tượng là thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Ban kiểm soát và các đối tượng này đã chây ỳ, không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp làm cho QTDND cơ sở bị mất khả năng thanh toán, buộc NHNN phải rút giấy phép hoạt động và BHTG Việt Nam phải thực hiện chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền. Chính vì điều này đã làm ảnh hưởng đến môi trường hoạt động tài chính – ngân hàng, gây tác hại không nhỏ tới uy tín của QTDND trên địa bàn cũng như toàn hệ thống.
Qua theo dõi thấy rằng, nguyên nhân chủ yếu của tồn tại nêu trên là do: Nhiều QTDND cơ sở chưa quán triệt nguyên tắc HTX trong tổ chức và hoạt động, chạy theo động cơ kinh doanh đơn thuần, xa rời mục tiêu tương trợ giữa các thành viên. Có những QTDND cơ sở hoạt động thực chất dưới sự quản lý và chỉ đạo của một nhóm người góp vốn lớn. Bên cạnh đó, trình độ đội ngũ cán bộ QTDND cơ sở còn nhiều hạn chế, ý thức chấp hành các quy định của pháp luật, nhất là các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng. Mặt khác, bộ máy kiểm soát của QTDND cơ sở hoạt động nhìn chung còn yếu kém, chưa phát huy được vai trò thay mặt thành viên giám sát hoạt động của QTDND cơ sở. Thậm chí, trong nhiều trường hợp còn bao che hoặc trở thành tòng phạm; trong khi đó các QTDND cơ sở cũng chưa thực sự quan tâm đến việc xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ. Vì vậy, đây là một trong những nguyên nhân rất cơ bản gây ra tình trạng yếu kém, mất an toàn cho hoạt động của QTDND cơ sở và cũng là lý do giải thích vì sao tỷ lệ rủi ro hoạt động xảy ra trong hoạt động của QTDND cơ sở cao hơn so với các loại hình TCTD khác.
Để góp phần hạn chế những tồn tại nêu trên, thiết nghĩ một số vấn đề sau cần được nghiên cứu chỉnh sửa:
- NHNN nghiên cứu, sửa đổi quy định về mức góp vốn của thành viên QTDND cơ sở. Để đảm bảo cho QTDND cơ sở thực sự trở thành TCTD hợp tác, hoạt động vì mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên, cần sửa đổi quy định hiện hành cho phép một thành viên được góp vốn tối đa không quá 30% xuống mức tối đa không quá 10% tổng số vốn điều lệ của QTDND cơ sở. Làm như vậy sẽ góp phần hạn chế tình trạng một số người góp vốn lớn chi phối việc quản lý, điều hành hoạt động của QTDND cơ sở theo hướng kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận, xa rời mục tiêu tương trợ thành viên. Đồng thời thông qua việc sửa đổi nâng cao dần tỷ lệ thành viên có vốn góp thường xuyên trên tổng số thành viên của QTDND cơ sở, qua đó nâng cao tính hợp tác trong tổ chức và hoạt động của QTDND cơ sở.
- Hoàn thiện và tăng cường hiệu lực công tác kiểm soát nội bộ của QTDND cơ sở. Bổ sung nhiệm vụ thực hiện kiểm toán nội bộ QTDND cho Ban kiểm soát. Theo quy định hiện hành của NHNN (Thông tư 44/2011/TT-NHNN), QTDND cơ sở phải thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ giúp Giám đốc điều hành thông suốt, an toàn và đúng pháp luật mọi hoạt động nghiệp vụ của QTDND cơ sở. Nhưng quy định hiện nay không bắt buộc các QTDND cơ sở phải thành lập bộ phận kiểm soát nội bộ, đồng thời việc xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ cũng chưa được các QTDND cơ sở thực sự quan tâm đã làm hạn chế hiệu quả của hoạt động kiểm soát nội bộ. Cũng theo quy định tại Thông tư 44, QTDND cơ sở phải tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ trực thuộc Ban kiểm soát. Đối với QTDND cơ sở không có Ban kiểm soát thì việc kiểm toán nội bộ do kiểm soát viên chuyên trách thực hiện. Chính vì vậy, NHNN cần nghiên cứu, bổ sung nhiệm vụ kiểm toán nội bộ cho Ban kiểm soát vì Quyết định 45/2006/QĐ-NHNN của NHNN chưa quy định nhiệm vụ này cho Ban kiểm soát. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý nhà nước cần có giải pháp để các TCTD thực hiện hoạt động kiểm soát và kiểm toán nội bộ phải thực sự hướng tới mục tiêu phát hiện rủi ro, đảm bảo sự an toàn, lành mạnh trong hoạt động, thay vì thực hiện chỉ để hướng đến việc đáp ứng các quy định của Nhà nước, mang tính hình thức.
Đối với Ban kiểm soát do Đại hội thành viên bầu, đề nghị bổ sung quy định nhằm làm rõ kiểm soát viên chuyên trách được hưởng lương như nhân viên QTDND cơ sở nhưng không phải là nhân viên thuộc thẩm quyền của Giám đốc mà là người của Ban kiểm soát được bố trí trực tiếp giám sát hoạt động của bộ máy điều hành, nhằm đảm bảo được yêu cầu là Ban kiểm soát thay mặt thành viên giám sát và kiểm tra mọi hoạt động của QTDND cơ sở theo đúng quy định của pháp luật và điều lệ QTDND cơ sở.
- Sớm đưa mô hình tổ chức kiểm toán của hệ thống QTDND đi vào hoạt động. Đây là yêu cầu hết sức cấp thiết nhằm thực hiện kiểm toán toàn diện tổ chức và hoạt động của hệ thống QTDND, kịp thời phát hiện các sai sót, yếu kém của các quỹ này.