Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đặng Thanh Bình, để thực hiện Luật BHTG có hiệu quả, NHNN đang khẩn trương xây dựng kế hoạch triển khai thực thi Luật thông qua các hoạt động: Tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật dưới các hình thức; xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền hướng dẫn thi hành Luật; hoàn hiện mô hình tổ chức của tổ chức BHTG. Những quy định của Luật đã rõ ràng, cụ thể cần nhanh chóng triển khai, đồng thời căn cứ vào tình hình thực tiễn để có những bước điều chỉnh cho phù hợp, không gây ra những xáo trộn, ảnh hưởng hoạt động của hệ thống. Những quy định chung trong Luật BHTG cần được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và NHNN hướng dẫn thực hiện, NHNN sẽ khẩn trương rà soát để triển khai xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, kịp thời trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền để triển khai thực hiện Luật BHTG khi có hiệu lực thi hành. Dự kiến sẽ có 01 nghị định do Chính phủ ban hành, 03 văn bản do Thủ tướng Chính phủ ban hành, 01 văn bản do NHNN ban hành và 01 văn bản liên tịch do Bộ Tài chính và NHNN ban hành.
Luật BHTG gồm 7 chương, 39 điều với những nội dung cơ bản:
Quản lý Nhà nước về BHTG
Luật BHTG xác định cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về BHTG là NHNN (khoản 2 Điều 8). Đồng thời, Luật xác định cụ thể trách nhiệm quản lý Nhà nước về BHTG của NHNN (Điều 9).
Mô hình tổ chức BHTG
Kế thừa các quy định pháp luật về BHTG, Luật BHTG quy định tổ chức BHTG là tổ chức tài chính Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ. Tổ chức BHTG là pháp nhân, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí.
Mô hình hoạt động của tổ chức BHTG
Được xây dựng theo mô hình BHTG chi trả với quyền hạn mở rộng, theo đó, bên cạnh nhiệm vụ tính và thu phí BHTG của các tổ chức tham gia BHTG, Luật tiếp tục trao cho tổ chức BHTG chức năng giám sát từ xa trên cơ sở các thông tin nhận được từ NHNN và tổ chức tham gia BHTG nhằm phát hiện và báo cáo NHNN xử lý kịp thời những rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng, những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng; tổ chức BHTG được tham gia vào quá trình kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tham gia BHTG theo quy định của NHNN hay tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG theo quy định của Chính phủ. Quy định này đảm bảo cho tổ chức BHTG thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và xác định rõ giới hạn của tổ chức BHTG trong việc bảo đảm an toàn hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia.
Chủ thể được BHTG
Luật BHTG quy định chỉ bảo hiểm cho tiền gửi của người gửi tiền là cá nhân mà không bảo hiểm cho tiền gửi của hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Theo NHNN, việc BHTG cho cả tổ chức không phù hợp với mục tiêu bảo vệ những người gửi tiền nhỏ lẻ, thiếu thông tin. Mặt khác, tiền gửi của tổ chức mang tính luân chuyển cao, chủ yếu nhằm mục đích thanh toán chứ không nhằm mục đích gửi tiền tiết kiệm. Vì vậy, việc quy định bảo hiểm cho tiền gửi của tổ chức là không phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Do đó, Luật BHTG quy định chủ thể được BHTG là cá nhân (Điều 18).
Chế độ thông tin, báo cáo về BHTG
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, tổ chức BHTG phải có được thông tin cần thiết về các tổ chức tham gia BHTG. Vì vậy, Luật BHTG đã quy định Chương V về Hoạt động thông tin, báo cáo, theo đó quy định cụ thể về trách nhiệm báo cáo và công bố thông tin của tổ chức BHTG và vấn đề cung cấp thông tin của NHNN.
Hoạt động đầu tư của tổ chức BHTG
Luật BHTG chỉ cho phép “Tổ chức BHTG được sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN và gửi tiền tại NHNN” (Điều 31) mà không cho phép tổ chức BHTG được mở tài khoản và gửi tiền tại tổ chức tín dụng Nhà nước như quy định của pháp luật hiện hành về BHTG.
Phí BHTG và hạn mức trả tiền bảo hiểm
Nhằm đảm bảo tính linh hoạt khi áp dụng phí BHTG và hạn mức trả tiền bảo hiểm trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh, Luật không quy định một mức phí hay một khung phí cứng mà rao thẩm quyền cho Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí BHTG và hạn mức trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của NHNN. Căn cứ vào khung phí BHTG, NHNN quy định mức phí BHTG cụ thể đối với tổ chức tham gia BHTG trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức này.
Thời điểm tổ chức BHTG có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền
Theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng 2010, tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền nhận tiền gửi của cá nhân, vì vậy hai loại hình này phải tham gia BHTG bắt buộc.
Việc xác định thời điểm trả tiền bảo hiểm phù hợp thể hiện cam kết của Nhà nước đối với người dân trong việc đảm bảo chi trả ngay lập tức khoản tiền bảo hiểm trong hạn mức BHTG cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG đổ vỡ nhằm củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, hạn chế hiện tượng rút tiền hàng loạt tại tổ chức tham gia BHTG, qua đó giảm thiểu tình trạng mất khả năng thanh toán của ngân hàng, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
Như vậy, để đảm bảo đạt được mục tiêu của Luật BHTG và phù hợp với quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng 2010, thời điểm tổ chức BHTG có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm được quy định cụ thể tại Điều 22: “Nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm phát sinh kể từ thời điểm NHNN có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng là tổ chức tham gia BHTG vẫn lâm vào tình trạng phá sản hoặc NHNN có văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài là tổ chức tham gia BHTG mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền”.