Khủng hoảng tài chính và tác động của nó
Tuy không trực tiếp rơi vào khủng hoảng nhưng Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nên cần phải đề cao cảnh giác để có những đối phó kịp thời vì chúng ta đã hội nhập với nền kinh tế thế giới. Dấu hiệu rõ nét nhất chính là sự ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường xuất khẩu, là những biến động bất thường trên thị trường vàng, thị trường ngoại tệ, sự sụt giảm mạnh mẽ của Vn-Index, đã khiến giới đầu tư không tránh khỏi thái độ e dè, lo ngại. Để chủ động đối phó với những biến động không mong muốn của thị trường tài chính, chúng ta cần đưa ra những giải pháp cụ thể cho các tình huống giả định trong trường hợp xảy ra đổ vỡ ngân hàng, chuẩn bị tâm lý sẵn sàng khi cần thiết. Theo kinh nghiệm của các nước, việc xử lý các tổ chức tài chính có nguy cơ đổ bể là điều không mong muốn nhưng có sự chuẩn bị chu đáo, hiệu quả và kịp thời sẽ giúp hạn chế đến mức tối đa những hậu quả, giảm thiểu những chi phí do đổ vỡ mang lại.
Tiếp nhận, xử lý ngân hàng có vấn đề- giải pháp hạn chế tổn thất và đổ vỡ dây truyền
Vốn là một lĩnh vực nhạy cảm, một sự đổ vỡ dù nhỏ nếu không có phương án xử lý kịp thời cũng có thể gây ra một cuộc khủng hoảng dây chuyền, tác động xấu đến cả nền kinh tế. Chính vì thế, ngay khi các tổ chức tín dụng có vấn đề, nhìn chung các nước đều tìm mọi biện pháp như tái cơ cấu, hỗ trợ tài chính, tìm tổ chức khác hợp nhất hay mua lại tổ chức này …nhằm cải thiện hoạt động của tổ chức, tránh đổ vỡ, giảm chi phí cho xã hội.
Một số mục tiêu cần lưu ý trong quá trình xử lý các ngân hàng đổ vỡ hoặc có nguy cơ đổ vỡ đó là phải lựa chọn được một phương án xử lý ít tốn kém, hiệu quả cao, tránh được đổ vỡ dây chuyền, ổn định được an ninh trật tự xã hội, không làm ảnh hưởng đến việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng ở một số khu vực và thị trường, cụ thể.
Các giải pháp trước đổ bể như mua lại, hợp nhất, hỗ trợ tài chính ..nếu được thực hiện thành công tốn rất ít chi phí và Nhà nước sẽ không phải chịu chi phí từ ngân sách. Muốn áp dụng được biện pháp này, đòi hỏi Chính phủ, các cơ quan giám sát tài chính và bản thân tổ chức có vấn đề phải hành động sớm như khuyến khích, thậm chí sử dụng các biện pháp mạnh để tổ chức có vấn đề nỗ lực hơn trong việc tìm kiếm giải pháp cho mình hoặc có những chính sách ưu đãi nhất định đối với tổ chức mua lại, làm cầu nối giữa hai bên trong khi có các công ty mua lại sẵn sàng tiếp quản tổ chức đổ bể. Tức là khi các tổ chức mua lại nhìn nhận đây là một vụ làm ăn có lợi, tổ chức có vấn đề khi được sáp nhập, mua lại có khả năng cải thiện, hoạt động hiệu quả trở lại, bù đắp số vốn đã bỏ ra và mang lại lợi nhuận. Bên cạnh đó các cơ quan giám sát cũng cần có những cơ chế phù hợp để tiến hành giám sát và kiểm tra hoạt động sáp nhập, mua lại; xác định tính hợp pháp của tổ chức mua lại nợ tiềm năng. Tổ chức này phải là một tổ chức hoạt động lành mạnh hoặc là một nhóm các nhà đầu tư có đủ vốn để mua lại và vận hành tổ chức bị đổ bể, có khả năng quản lý tổ chức đó.
Đối với các tổ chức có quy mô lớn mà sự đổ vỡ của nó có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường tài chính cũng như nền kinh tế nếu rơi vào tình trạng thiếu hụt khả năng thanh toán tạm thời, tổ chức bảo hiểm tiền gửi hoặc cơ quan giám sát có thẩm quyền có thể cung cấp một khoản hỗ trợ tài chính cho tổ chức đó, giúp tổ chức này giải quyết được những khó khăn trước mắt, có thời gian để cải tổ hoạt động của mình, thoát khỏi đổ vỡ. Khi áp dụng biện pháp này đòi hỏi cơ quan cung cấp tài chính cần có những điều khoản chặt chẽ, kiểm soát được hoạt động của tổ chức nhận vốn đảm bảo nguồn vốn mà họ cung cấp được sử dụng đúng mục đích.
Đối với những tổ chức có quy mô nhỏ hoạt động yếu kém việc đổ vỡ của nó không có ảnh hưởng gì lớn đến thị trường tiền tệ và sự ổn định của hệ thống tài chính cũng như sau khi tất cả những nỗ lực của bản thân tổ chức này, của các cơ quan giám sát tài chính không mang lại hiệu quả tích cực, tổ chức đó sẽ bị đóng cửa, biện pháp thường được áp dụng trong hoàn cảnh này là thanh lý và chi trả tiền gửi cho người gửi tiền. Lúc này yêu cầu bức thiết là việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền phải được tiến hành một cách nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo quyền lợi cho người dân, hạn chế tâm lý lo sợ dẫn đến rút tiền hàng loạt tại các tổ chức tín dụng khác. Tài sản của tổ chức tín dụng bị đổ vỡ phải được thanh lý nhanh gọn, tránh thất thoát, thu hồi tối đa vốn về cho Nhà nước và đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan.
Để việc xử lý các tổ chức đổ vỡ hoặc có nguy cơ đổ vỡ đạt kết quả tốt, không gây ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống tài chính theo kinh nghiệm của các nước điều đầu tiên phải làm, đó là xây dựng được cơ chế luật định về việc can thiệp sớm vào các vấn đề của một tổ chức tín dụng gặp khó khăn cũng như quyết định một ngân hàng có đổ vỡ hay không. Các tiêu chuẩn cho phép can thiệp phải bao gồm cả các yếu tố định tính và định lượng như đánh giá chất lượng quản lý, các thiệt hại vật chất do vi phạm quy định về an toàn hoạt động và, vốn điều lệ, chất lượng tài sản…Bên cạnh đó, phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ có chuyên môn và kinh nghiệm từ cơ quan giám sát hoặc các chuyên gia độc lập để thẩm định tình hình tài chính của tổ chức có vấn đề. Các tiêu chuẩn thẩm định phải dựa trên giá trị thị trường. Các hoạt động xử lý cần phải dựa trên cơ chế và nguyên tắc thị trường. Nỗ lực tối đa hóa các khoản thu hồi từ tài sản của tổ chức đổ vỡ nhờ biện pháp bám sát thị trường, các hoạt động thanh lý cần được thực hiện nhanh gọn, kiểm soát chặt chẽ, tránh thất thoát vốn của Nhà nước. Để làm được điều này các quy định về hướng dẫn thanh lý cần phải rõ ràng trong việc xác định tư cách chủ nợ của từng đối tượng và vai trò trách nhiệm của các thành viên trong Hội đồng thanh lý cũng như cho phép vận dụng các biện pháp thị trường để bán tài sản còn lại của tổ chức với giá cao nhất có thể. Đặc biệt điều cần lưu tâm đó là đảm bảo hiệu quả chi trả cho người gửi tiền khi tổ chức đã phá sản, ngăn chặn đổ vỡ lây lan.
Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Đối với Việt Nam, cho đến nay chúng ta vẫn chưa có một cơ chế tiếp nhận và xử lý đồng bộ các tổ chức tín dụng khi xảy ra khủng hoảng và đổ vỡ. Trong quá khứ, Việt Nam chúng ta từng chứng kiến sự sụp đổ hệ thống của hàng ngàn HTX tín dụng trên cả nước, quá trình xử lý do thiếu kinh nghiệm và sự chuẩn bị kỹ lưỡng nên hậu quả để lại là rất nặng nề. Hay như hai ngân hàng Việt Hoa và Nam Đô bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt đến nay đã hơn mười năm những vẫn chưa đưa được ra kết luận cuối cùng, chi phí bỏ ra để xử lý là không nhỏ nhưng kết quả mang lại thì rất hạn chế, gây thất thoát vốn của nhà nước. Có thể nói đã đến lúc chúng ta cần xử lý các tổ chức đổ vỡ theo nguyên tắc thị trường, giao nhiệm vụ cho một tổ chức làm đầu mối, xây dựng một cơ chế phối hợp giữa các cơ quan giám sát tài chính để xử lý khủng hoảng.
Hiện nay, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) đang hoàn thiện Đề án tiếp nhận và xử lý các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Theo dự thảo của Đề án, sẽ có 7 kịch bản xảy ra sự cố và ở mỗi kịch bản sẽ có những biện pháp xử lý một cách phù hợp và bài bản theo nguyên tắc thị trường với chi phí thấp nhất, thời gian nhanh nhất, thu hồi được tài sản cao nhất, có hiệu quả và chia sẻ được rủi ro. Đây là một tín hiệu đáng mừng trong hoạt động tiếp nhận và xử lý các tổ chức tín dụng có vấn đề tại Việt Nam. Tuy nhiên, để cải thiện hoạt động này chúng ta cần có một khung pháp lý điều chỉnh ( Luật BHTG) để có cơ sở triển khai thực hiện cũng như xây dựng một đội ngũ chuyên viên tài chính có khả năng đánh giá chuẩn xác tình trạng hoạt động và thời điểm cần thiết chấm dứt hoạt động của các ngân hàng. Làm được điều này chúng ta sẽ tránh được sự bị động, lúng túng trong quá trình xử lý đổ vỡ ngân hàng, góp phần đảm bảo an toàn của hệ thống tài chính quốc gia.