Mục tiêu lớn nhất của Luật BHTG là bảo vệ tốt nhất người gửi tiền và đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng
Tổ chức BHTG không chỉ bảo hiểm cho người gửi tiền mà còn góp phần giữ ổn định chính trị, là một khâu quan trọng đảm bảo an toàn cho cả hệ thống tài chính. Do đó, Luật BHTG cần trao cho tổ chức BHTG chức năng, nhiệm vụ rộng hơn. Ví dụ: Ở Hàn Quốc, tổ chức BHTG còn có thẩm quyền tham gia điều tra đối với các tổ chức đổ vỡ. Ngoài ra, tổ chức BHTG còn có chức năng giám sát, kiểm tra nhưng làm sao đó để ko chồng chéo và các cơ quan giám sát có thể chia sẻ, sử dụng kết quả kiểm tra của nhau.
(Bà Dương Thu Hương – Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng)
Luật BHTG là đạo luật rất quan trọng, việc soạn thảo nó nên có một tầm nhìn xa về sự phát triển rất nhanh của các định chế tài chính và phải là một đạo luật phản ánh thực chất nhu cầu của phát triển. Tổ chức BHTG cần phải có một tiềm lực tài chính đủ lớn để có thể gánh vác, xử lý khi rủi ro xảy ra. Đồng thời, cần tạo lập cơ chế hợp tác chặt chẽ giữa tổ chức BHTG với Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và các cơ quan giám sát khác. Cần tăng cường chia sẻ thông tin, chia sẻ trách nhiệm, hợp tác với nhau để đảm bảo cho công tác giám sát được nhìn từ nhiều góc độ, khía cạnh và thấy được các rủi ro rõ hơn, kịp thời hơn.
(Ông Vũ Nhữ Thăng – Viện trưởng Viện Chiến lược tài chính – Bộ Tài chính)
Vừa rồi chúng ta cũng đã thực hiện cải cách thể chế liên quan đến lĩnh vực tài chính ngân hàng thông qua việc ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước sửa đổi và Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi. Theo tôi, đây là một bước tiến để điều chỉnh các quy định liên quan cho phù hợp với thị trường tài chính của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, vai trò các cơ quan chức năng trong mạng an toàn tài chính cũng chưa được quy định rõ nét. Đồng thời, chúng ta cần hoàn thiện thể chế về bảo vệ người gửi tiền cho phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và thông lệ quốc tế thông qua việc sớm ban hành BHTG. Việc này hết sức cần thiết vì đó là đòi hỏi của thực hiện khách quan và giải quyết được những vấn đề bất cập đang tồn tại về chính sách bảo vệ người gửi tiền.
(Ông Đinh Xuân Thảo - Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội)
Luật BHTG cần được xây dựng đồng bộ với các văn bản luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng theo thông lệ quốc tế, đảm bảo rằng:
- Tổ chức BHTG có đủ thẩm quyền pháp lý để bảo vệ người tiêu dùng sử dụng dịch vụ tài chính và xử lý các tổ chức tham gia BHTG có vấn đề một cách kịp thời và hiệu quả;
- Quy định rõ về phạm vi, nội dung hoạt động nghiệp vụ BHTG để bảo vệ người gửi tiền như giám sát, kiểm tra, chi trả, xử lý;
- Người gửi tiền được ưu tiên hơn các chủ nợ khác trong quá trình thanh lý tổ chức tham gia BHTG có vấn đề.
(Ông Lê Thẩm Dương – Trưởng khoa Quản trị Kinh doanh – Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh)
Bản chất của BHTG BHTG mang bản chất của các loại hình bảo hiểm khác nói chung, tức là hoạt động theo nguyên lý lấy số đông bù số ít nhưng có tính đặc thù. Tính đặc thù được thể hiện như sau: - BHTG là loại hình dịch vụ công mà người thụ hưởng là cả cộng đồng. - Hoạt động của tổ chức BHTG thường không vì mục tiêu lợi nhuận. Chính phủ các quốc gia thành lập hệ thống BHTG nhằm thực hiện chính sách công, đó là bảo vệ người gửi tiền và góp phần đảm bảo sự phát triển an toàn lành mạnh của hệ thống tài chính ngân hàng. (Trích “Tài liệu nghiên cứu của Trung tâm Thông tin – Văn phòng Quốc hội về BHTG”) |
Cách tốt nhất là chúng ta căn cứ vào thông lệ quốc tế cũng như tiếp cận nhanh hơn với thị trường để giải quyết một cách cơ bản cả về mô hình tổ chức, hệ thống thể chế cũng như sự phối hợp với các cơ quan chức năng trong hệ thống giám sát tài chính (như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia). Có như vậy mới đảm bảo cho hoạt động BHTG phát huy được nhanh, đầy đủ, đúng vị trí của nó, đóng góp xứng đáng cho hoat động của hệ thống tài chính. Đây cũng là nhân tố tạo niềm tin và đảm bảo cho hệ thống tài chính
(T.S Cao Sỹ Kiêm -Nguyên thống đốc Ngân hàng nhà nước - thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ Quốc gia)
Nếu tổ chức BHTG quá phụ thuộc vào cơ quan quản lý nhà nước thì sẽ khó có thể can thiệp kịp thời và tham gia cùng các thiết chế/thành viên khác trong mạng an toàn tài chính giải quyết khủng hoảng một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, cùng với việc khẳng định tổ chức BHTG là tổ chức duy nhất thực hiện việc BHTG của dân và là định chế tài chính do Nhà nước thành lập để thực hiện chính sách công, nên cần làm rõ mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực BHTG hoặc giữa các cơ quan quản lý nhà nước đối với tổ chức BHTG như: trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Tài chính trong việc cấp vốn, quản lý tài chính; Bộ Nội Vụ trong việc bổ nhiệm các chức danh chủ chốt của tổ chức BHTG; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội về cơ chế tiền lương, phụ cấp v.v...
(Ông Đinh Trung Tụng – Thứ trưởng Bộ Tư pháp)
Hiện nay, tổ chức BHTG ở hầu hết các nước trên thế giới đều có tên gọi là Tổng công ty (TCT), là tổ chức có vị trí độc lập hoặc tương đối độc lập, trực thuộc Chính phủ hoặc Quốc hội.
Mô hình BHTG giảm thiểu rủi ro là một mô hình tiên tiến và cũng rất phổ biến trên thế giới hiện nay. Theo mô hình này, tổ chức BHTG đựợc trao những quyền hạn và phạm vi hoạt động rộng lớn hơn. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền, tổ chức BHTG theo mô hình giảm thiểu rủi ro còn tham gia cùng với các cơ quan nhà nước và ngân hàng trung ương vào hoạt động giám sát và đánh giá rủi ro của các ngân hàng và các định chế tài chính khác.
(Ông Đinh Dũng Sỹ - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật – Văn phòng Chính phủ)
Là công cụ thực hiện chính sách công của Chính phủ, vì thế, về mặt tác nghiệp, tổ chức BHTG phải được độc lập để đảm đương những trách nhiệm được giao phó. Dưới sự điều hành của tôi khi còn là Tổng Giám đốc BHTG Canada hay sau này phụ trách hệ thống BHTG của Malaysia, có thể nói, chúng tôi hoạt động hoàn toàn độc lập bởi chúng tôi có luật, có chức năng nhiệm vụ rõ ràng, có Hội đồng quản trị để thực hiện tất cả những công việc được giao.
(Ông Jean Pierre Sabourin - Tổng Giám đốc Tổng công ty BHTG Malaysia – nguyên Chủ tịch Hiệp hội BHTG quốc tế)
Tôi đồng ý với nhiều ý kiến là tổ chức BHTG cần độc lập tương đối nhưng phải chịu sự quản lý của Nhà nước. Hoạt động của tổ chức này phải tuân thủ theo luật. Trên thực tế có rất nhiều tổ chức nằm trong sự quản lý của một số bộ ngành nhưng hoạt động của nó lại chịu sự chi phối bởi luật khác. Độc lập ở đây là độc lập trong hoạt động.
(Ông Tô Ngọc Hưng – Giám đốc Học viện Ngân hàng)
Nguyên tắc 5 – Quản trị: Tổ chức bảo hiểm tiền gửi cần hoạt động một cách độc lập, minh bạch, có trách nhiệm giải trình và không bị tác động bởi hệ thống chính trị và khu vực tài chính ngân hàng. (Trích “18 nguyên tắc BHTG hiệu quả” của Hiệp hội BHTG quốc tế) |
Cần đổi mới cơ chế BHTG
Tại sao không bảo hiểm ngoại tệ?
Chúng ta bảo hiểm đồng Việt Nam dưới góc độ là tài sản của người dân thì đồng USD cũng là tài sản và được giao dịch hợp pháp tại các tổ chức tín dụng cũng phải được bảo hiểm chứ.
(Ông Nguyễn Văn Phúc – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội)
Bảo hiểm đối với tiền gửi là ngoại tệ là cần thiết vì khi nào Nhà nước cho phép huy động bằng ngoại tệ thì tiền gửi ngoại tệ là hợp pháp và cần được bảo vệ. Có ý kiến cho rằng điều đó ảnh hưởng đến chính sách đô la hóa, tuy nhiên việc chống đô la hóa bằng nhiều chính sách chứ không chỉ phụ thuộc vào việc bảo vệ tiền gửi bằng ngoại tệ.
(Đại diện Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Hàng Hải)
Tổ chức BHTG phải có vốn đủ mạnh
Khi xây dựng Luật BHTG, cần tham khảo kỹ các bộ luật BHTG của các nước, tìm ra những gì tinh túy của họ phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Trong đó, mô hình tổ chức BHTG hiệu quả, theo tôi là mô hình tổng công ty đặc biệt, độc lập, có vốn đủ mạnh. Thời nay không có vốn lớn không thể bảo hiểm được cho các định chế tài chính. Những chức năng, nhiệm vụ khác cũng trên nền tảng tài chính phải mạnh.
(Ông Lê Xuân Nghĩa – Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia)
Về chiến lược dài hạn, cần bổ sung nguồn vốn cho tổ chức BHTG để đảm bảo an toàn hệ thống theo thông lệ quốc tế (Quỹ BHTG của tổ chức BHTG phải đảm bảo tỷ lệ từ 1,5%-5% trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm). Tỷ lệ này ở Việt Nam mới chỉ đạt xấp xỉ 1%.
(Ông Lê Quốc Lý – Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh)
Nguyên tắc 11 – Cấp vốn: Một hệ thống BHTG phải có sẵn các cơ chế tạo vốn nhằm mục đích đảm bảo chi trả kịp thời cho người gửi tiền, bao gồm cả cách thức huy động nguồn tài chính dự phòng bổ sung cho mục đích thanh khoản khi cần.
(Trích “18 nguyên tắc BHTG hiệu quả” của Hiệp hội BHTG quốc tế) |
Tăng hạn mức BHTG – tăng niềm tin vào hệ thống ngân hàng
Hạn mức tiền gửi được bảo hiểm tối đa 50 triệu đồng quả là quá thấp. Theo tôi biết, mức này đã được quy định từ năm 2005, với tốc độ lạm phát và quy mô phát triển của nền kinh tế, thu nhập bình quân đầu người ở nước ta nó trở nên quá nhỏ bé trong điều kiện hiện nay. Chắc chắn, với một mức chi trả thấp như vậy không tạo được động lực thu hút tiền gửi vào các tổ chức tín dụng.
(Ông Nguyễn Sỹ Dũng – Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội)
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phục hồi bấp bênh và ẩn chứa nhiều rủi ro, nền kinh tế trong nước vừa mới thoát ra khỏi đáy của cuộc khủng hoảng và đang trở lại quỹ đạo tăng trưởng thì việc củng cố lòng tin của người gửi tiền là thực sự cần thiết.
Một trong các biện pháp trước mắt là nâng hạn mức bảo hiểm cho người gửi tiền khi nền kinh tế gặp khó khăn nhằm tăng niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng.
(Ông Trần Đình Thiên – Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam)
Nhanh chóng đổi mới phương pháp tính phí BHTG
Hầu hết các quốc gia đều áp dụng mức phí trên cơ sở rủi ro vì tính ưu việt của nó. Phương pháp tính phí này là tín hiệu để các ngân hàng biết mình đang ở vị trí nào, là tiếng chuông cảnh báo để các tổ chức tín dụng vươn lên.
(Bà Dương Thu Hương – Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng)
Để tổ chức BHTG ở Việt Nam phát huy vai trò tích cực trong việc tạo ra một môi trường cạnh tranh, bình đẳng giữa các ngân hàng thì việc thực hiện hệ thống tính phí theo mức độ rủi ro là cần thiết. Phương pháp tính phí BHTG theo mức độ rủi ro là biện pháp góp phần hạn chế rủi ro ngân hàng, đồng thời tạo nguồn lực tài chính mới để BHTGVN có khả năng ứng phó với những rủi ro này. Mặc dù đây là một vấn đề phức tạp, song trong bối cảnh nguy cơ đổ vỡ ngân hàng hiện nay không thể không đặt ra.
(Ông Nguyễn Trọng Nghĩa – Vụ trưởng Vụ Pháp chế - Bộ Tài chính)