Các khoản cho vay tiêu dùng thường được cung ứng bởi ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, dưới các hình thức như cho vay mua xe, cho vay mua thiết bị gia đình, cho vay theo lương, cho vay qua thẻ tín dụng…
Dù vay tiêu dùng thường bị phản ứng là có lãi suất cao, song theo TS. Nguyễn Thị Kim Thanh, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng Nhà nước, “sự tồn tại và phát triển nào cũng có cái lý của nó, vì vậy, chúng ta cần có cái nhìn khách quan”. Bà nói:
- Hoạt động cho vay tiêu dùng xuất hiện nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân, khi năng lực tài chính chưa đủ để trang trải nhu cầu, cho phép họ có thể tiêu dùng trước, chi trả sau dưới nhiều hình thức.
Bên cạnh đó, sự phát triển của các hoạt động cho vay tiêu dùng cũng cho thấy hoạt động này không chỉ có ý nghĩa với từng cá nhân, mà còn mang lại những tác động tích cực cho toàn xã hội. cho vay tiêu dùng cũng là một công cụ quan trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
“Cao hơn là đương nhiên”
Vậy thì lợi ích cụ thể của cho vay tiêu dùng với đời sống người dân và xã hội là gì, từ góc nhìn của bà?
Thứ nhất, nó nâng cao cơ hội tiếp cận tài chính cho người dân, đặc biệt là những người dân có thu nhập thấp, không có lịch sử tín dụng, đây là nhóm khách hàng dưới chuẩn thường bị từ chối bởi các ngân hàng thương mại truyền thống, giúp cho các kế hoạch tiêu dùng diễn ra suôn sẻ giữa các chu kỳ biến động của thu nhập.
Thứ hai, góp phần gia tăng sự hiểu biết về tài chính cho các nhóm khách hàng mới, tầng lớp dân cư ít tiếp cận các dịch vụ ngân hàng, vì vậy giúp họ quản lý tốt hơn các giao dịch tài chính cá nhân, cũng như tạo nền tảng để họ có thể sẵn sàng sử dụng các dịch vụ tài chính khác, bao gồm các dịch vụ ngân hàng truyền thống.
Thứ ba, làm giảm nhu cầu đối với các dịch vụ tín dụng phi chính thức, do đó, hạn chế cho vay nặng lãi, “tín dụng đen”.
Thứ tư, cho vay tiêu dùng cũng được xem là một công cụ quan trọng làm kích cầu tiêu dùng, qua đó làm tăng sản lượng và tạo thêm các cơ hội việc làm, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
Nhưng hiện nay, cho vay tiêu dùng thường bị phản ứng là có lãi suất cao…
Lãi suất cho vay tiêu dùng cao hơn là đương nhiên.
Bởi, đối tượng khách hàng của các khoản vay tiêu dùng là cá nhân. Quy mô vay tiêu dùng thường nhỏ, phù hợp với giá cả của hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng. Kỳ hạn khoản vay thường là ngắn hạn và trung hạn.
Phần lớn các khoản vay tiêu dùng được cung cấp dưới hình thức cho vay trả góp và không có tài sản đảm bảo, thường được thực hiện bởi các công ty tài chính. Các công ty này không có chức năng huy động vốn từ dân cư như ngân hàng.
Bên cạnh đó, đối tượng khách hàng của các khoản vay tiêu dùng thường là người dân khó hoặc không vay được từ các ngân hàng thương mại.
Các đặc điểm này tác động đến quá trình hình thành và chi phí hình thành khoản vay, từ đó, làm cho lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn so với lãi suất cho vay thương mại. Chi phí cho một đơn vị dư nợ vay tiêu dùng có thể cao hơn chi phí cho một đơn vị vốn cho vay thương mại 2 đến 5 lần.
Rủi ro tín dụng của các khoản vay tiêu dùng cũng cao hơn cho vay thương mại, làm cho chi phí bù rủi ro có thể rất lớn. Trong khi đó, doanh thu thu được từ khoản cho vay tiêu dùng thường nhỏ hơn và bấp bênh hơn so với doanh thu thu được từ khoản cho vay thương mại.
Đối với các công ty tài chính cho vay tiêu dùng chi phí cho các khoản cho vay tiêu dùng còn cao hơn của các ngân hàng thương mại, bởi chi phí đầu vào lớn hơn và đôi khi cũng có thể bao hàm cả chi phí cho các dịch vụ khác như phí chuyển khoản qua ngân hàng, phí bảo hiểm…
Mặt khác, mức lãi suất cho vay tiêu dùng cũng có sự chênh lệch lớn giữa các sản phẩm khác nhau và các khách hàng khác nhau phụ thuộc vào tính chất của sản phẩm, cũng như mức độ rủi ro của từng khách hàng.
Thống kê về lãi suất cho vay tiêu dùng của công ty tài chính tại các nước trên thế giới cho thấy mức lãi suất có thể cao vài chục phần trăm/năm, thậm chí vài trăm phần trăm/năm, như các khoản vay có dư nợ nhỏ, ngắn hạn (payday loan) được cung cấp ở thị trường Anh với mức lãi suất lên tới 500%/năm.
“Cần một khuôn khổ pháp lý”
Lãi suất có thể buộc phải cao hơn, tuy nhiên, liệu điều này sẽ gây ra những hệ quả nào đến hoạt động cho vay tiêu dùng?
Đúng là mức lãi suất cao hiện vẫn là một vấn đề gây ra nhiều lo ngại đối với hoạt động cho vay tiêu dùng. Song theo tôi, nó không thể cản trở sự phát triển của loại hình sản phẩm tài chính này, bởi những lợi ích mang lại như đã phân tích ở trên.
Hiện thị trường cho vay tiêu dùng ở Việt Nam đang có những bước phát triển mạnh, nhất là từ các công ty tài chính tiêu dùng. Điều đó đã góp phần không nhỏ vào việc hạn chế “tín dụng đen” và mở ra cơ hội cho nhiều người dân tiếp cận được dịch vụ ngân hàng.
Sự phát triển của thị trường cho vay tiêu dùng ở Việt Nam sẽ là xu hướng tất yếu, không chỉ mở rộng về quy mô dư nợ cho vay, mà tính chất phức tạp của thị trường cũng sẽ tăng lên, cùng với sự xuất hiện của các sản phẩm mới như các khoản cho vay theo lương (payday loans), hoạt động cho vay đồng cấp (peer to peer loans) hiện đã được phát triển ở rất nhiều nước.
Theo bà, Nhà nước cần làm gì để thị trường cho vay tiêu dùng tại Việt Nam phát triển đúng hướng?
Hiện nay, các cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực này đang nỗ lực để có thể quản lý tốt hoạt động cho vay tiêu dùng, với hai mục tiêu chính là bảo vệ người đi vay và đồng thời thúc đẩy thị trường cho vay tiêu dùng phát triển lành mạnh, cung cấp các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
Để thúc đẩy sự phát triển thị trường này tại Việt Nam theo kịp sự phát triển của thị trường thế giới, tôi cho rằng trước hết cần có một khuôn khổ pháp lý quy định về hoạt động cho vay tiêu dùng.
Khuôn khổ này cần đảm bảo sự hài hòa giữa các chức năng bảo vệ người tiêu dùng và điều tiết các tổ chức tín dụng theo thông lệ quốc tế và phù hợp với thực tế Việt Nam, đi đôi với việc nâng cao tính năng động, trách nhiệm và minh bạch trong hoạt động cho vay tiêu dùng của các tổ chức tín dụng, tạo ra nhiều sản phẩm phù hợp với nhu cầu, thu nhập của người dân.
Minh bạch hóa các điều kiện tín dụng, đặc biệt là lãi suất, cũng là giải pháp quan trọng để bảo vệ người đi vay khỏi các sai sót và bất công trong việc tính toán lãi vay, đồng thời giúp người đi vay có thể so sánh giữa các khoản vay và đưa ra quyết định hợp lý, trên cơ sở có đầy đủ thông tin.