Quá trình hình thành và phát triển của Bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản
Bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản (DICJ) thành lập vào năm 1971 để bảo vệ người gửi tiền và duy trì sự ổn định tài chính sau khi Luật Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) được thông qua vào tháng 4 năm 1971. Nguồn vốn được đóng góp ban đầu là 450 triệu Yên từ Bộ tài chính, Ngân hàng trung ương Nhật Bản và các tổ chức tài chính tư nhân (nguồn tài chính cho hoạt động của DICJ hiện nay lên tới 32,135 triệu Yên).
Trước năm 1991, vị trí của DICJ khá mờ nhạt trong hệ thống tài chính vì Nhật Bản vẫn áp dụng chính sách “không cho đổ vỡ” đối với các tổ chức tài chính. Vì vậy, DICJ chưa phải chi trả lần nào đến thời điểm đó, hơn nữa, sự độc lập của DICJ trong hoạt động bị hạn chế do không đủ nguồn lực và quyền hạn.
Từ năm 1996, vai trò và chức năng của DICJ có những cải thiện đáng kể theo xu hướng cải cách của Chính phủ Nhật Bản. Theo cơ cấu mới, DICJ được phép cấp hỗ trợ tài chính vượt quá chi phí chi trả cho các hoạt động xử lý các tổ chức tài chính bị đổ vỡ, phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu bảo hiểm tiền gửi (BHTG) từ chi trả có hạn mức sang bảo đảm toàn bộ. DICJ cũng được phép mua lại nợ xấu. Tổng công ty quản lý cho vay mua nhà (HLAC) được thành lập với 100% vốn do DICJ đóng góp nhằm sắp xếp tài sản của các công ty Jusen, những công ty chuyên cho vay mua nhà đang nảy sinh vấn đề về nợ xấu.
Năm 1997 Luật BHTG của Nhật Bản tiếp tục được sửa đổi, ngoài ra Luật tái thiết tài chính và Luật liên quan đến các biện pháp khẩn cấp cho việc củng cố sớm các chức năng tài chính (Luật củng cố sớm) năm 1998 cũng được ban hành, điều này cho phép DICJ thực hiện những chức năng bổ sung liên quan đến việc xử lý các tổ chức tài chính đổ vỡ, bao gồm các nhiệm vụ liên quan đến điều hành tài chính và ngân hàng bắc cầu, và việc bơm vốn như biện pháp tạm thời cho việc tái thiết hệ thống tài chính. Để hỗ trợ cho việc thực hiện các hoạt động này, ngoài các phòng ban chức năng, DICJ còn thành lập và điều hành một số công ty con bao gồm: Tổng công ty xử lý và tiếp nhận (RCC); Ngân hàng bắc cầu thứ hai của Nhật Bản và Tổng công ty tái thiết công nghiệp Nhật Bản.
Hoạt động xử lý ngân hàng đổ vỡ của Bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản
Khi Luật BHTG được sửa đổi căn bản vào 1998, hoạt động xử lý ngân hàng đổ vỡ của DICJ mới thực sự được triển khai sau 27 năm thành lập và trải qua những đổ vỡ ngân hàng. Nội dung, phạm vi hoạt động và vai trò của DICJ đã được mở rộng. DICJ hiện nay đã trở thành một trong những cơ quan then chốt cho sự ổn định hệ thống tài chính, chủ yếu thực hiện quy trình xử lý các tổ chức tài chính đổ vỡ, đặc biệt trong giai đoạn ngân hàng gặp khó khăn.
Chi trả tiền gửi được bảo hiểm
Khi xảy ra đổ vỡ ngân hàng, DICJ thực hiện chi trả số tiền gửi bảo hiểm trong hạn mức là 10 triệu Yên bao gồm cả gốc và lãi cộng dồn của các loại tiền gửi thông thường, tiền gửi có kỳ hạn và các loại công cụ huy động khác. Người gửi tiền thường được chi trả thông qua tổ chức tiếp nhận tổ chức tài chính đổ vỡ sau khi DICJ xác định số tiền gửi được bảo hiểm cho mỗi người gửi tiền, bằng cách tập hợp toàn bộ số tiền gửi của người gửi tiền tại tổ chức đó.
Ngoài ra, khi việc chi trả không thực hiện được trong khoảng thời gian ngắn, DICJ sẽ áp dụng chi trả một phần cho người gửi tiền để đảm bảo người gửi tiền có thể trang trải chi phí sinh hoạt cơ bản. Số tiền chi trả từng phần thường ở mức bằng với số dư tiền gửi tiết kiệm thông thường (tiền gốc) cho một người gửi tiền và không vượt quá 600.000 Yên.
Hỗ trợ tài chính
DICJ có thể hỗ trợ tài chính cho tổ chức tiếp nhận và/hoặc công ty sở hữu ngân hàng mua lại tài sản; nhận nợ của tổ chức đổ vỡ hoặc sáp nhập với tổ chức đó. Hỗ trợ tài chính có thể dưới hình thức cấp tiền, cho vay hoặc gửi tiền, mua tài sản, đảm bảo hoặc tiếp nhận nợ, mua cổ phiếu ưu đãi hoặc chia sẻ lỗ. Từ năm 2001, hỗ trợ tài chính chỉ được thực hiện khi số tiền hỗ trợ bằng hoặc nhỏ hơn số tiền dự kiến chi trả và thường áp dụng đối với việc chuyển giao tiền gửi được bảo hiểm, chuyển giao các tài sản lành mạnh và các tài sản khác. Ngoài ra, DICJ có thể mua cổ phiếu ưu đãi hoặc cổ phiếu khác của các tổ chức tiếp nhận hoặc sáp nhập tổ chức đỗ vỡ khi được yêu cầu trên cơ sở bản kế hoạch kinh doanh của tổ chức này phải đảm bảo tính lành mạnh về tài chính của mình. Từ năm 1992 đến năm 2013, DICJ đã hỗ trợ tài chính lên tới 25,424.7 tỷ Yên cho 182 trường hợp.
Mua lại tiền gửi và các khoản tiền khác
DICJ có thể mua lại tiền gửi hoặc các loại tài khoản khác không thuộc diện bảo vệ của chính sách BHTG, như phần tiền gửi vượt quá 10 triệu Yên cùng khoản lãi cộng dồn hoặc các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ từ các tổ chức tài chính trong tình trạng khẩn cấp. Giá mua hay còn gọi là “khoản mua dự tính“ sẽ được tính bằng cách lấy số dư các khoản tiền gửi vào ngày tuyên bố thực hiện BHTG, nhân với tỷ lệ được xác định trong quá trình xem xét thanh lý cổ tức dự tính của tổ chức tài chính bị đổ vỡ và một số yếu tố khác. Nếu lượng tiền mà DICJ thu lại được từ giao dịch này vượt quá giá mua, phần thặng dư sẽ được trả lại cho người gửi tiền.
Thiết lập ngân hàng bắc cầu
DICJ có thể thiết lập ngân hàng bắc cầu như là một công ty con của mình, có nhiệm vụ tiếp nhận việc kinh doanh của tổ chức tài chính bị đổ vỡ nhằm duy trì hoạt động của tổ chức cho đến khi có một đối tác tư nhân mua lại tổ chức này được xác định và việc chuyển giao kinh doanh được hoàn thành.
Về nguyên tắc, một ngân hàng bắc cầu hoàn thành việc chuyển giao kinh doanh của tổ chức tài chính bị đổ vỡ trong vòng 2 năm kể từ khi “chỉ thị trao quyền quản lý“ được ban hành. Việc chuyển giao kinh doanh có thể hoàn thành thông qua chuyển giao các hoạt động kinh doanh, chuyển giao cổ phần, giải tán thông qua cuộc họp cổ đông hoặc bằng những cách khác. Tuy nhiên, khi không thể hoàn thành việc chuyển giao trong vòng 2 năm do những trường hợp bất khả kháng, thời hạn chuyển giao kinh doanh sẽ được gia hạn thêm 1 năm.
DICJ cũng có thể cho vay hoặc đảm bảo việc vay nợ của ngân hàng bắc cầu, đền bù khoản tổn thất phát sinh khi điều hành hoạt động của ngân hàng bắc cầu.
Điều hành tài chính của tổ chức bị đổ vỡ
Khi một tổ chức tài chính bị đổ vỡ, Uỷ viên hội đồng của Cơ quan dịch vụ tài chính (FSA) ban hành “chỉ thị trao quyền quản lý“ (Ví dụ: chỉ thị việc kinh doanh hay tài sản của tổ chức tài chính sẽ được đặt dưới sự quản lý của một tổ chức điều hành tài chính). DICJ có thể được chỉ định là người điều hành tài chính cho tổ chức tài chính theo Luật BHTG. Hoạt động chính của DICJ trong vai trò này là: (i) điều hành các hoạt động của tổ chức tài chính bị đổ vỡ; (ii) lựa chọn tổ chức tài chính tiếp nhận và chuyển giao kinh doanh một cách suôn sẻ; và (iii) tiếp tục đòi nợ những người điều hành trước đây của tổ chức tài chính bị đổ vỡ.
Hoạt động điều hành này sẽ kết thúc trong vòng 1 năm sau khi “chỉ thị trao quyền quản lý“ thông qua việc chuyển giao kinh doanh của tổ chức đổ vỡ cho một tổ chức khác, hoặc có thể được gia hạn thêm một năm, tuy nhiên việc gia hạn phải được sự chấp thuận của Uỷ viên hội đồng FSA.
Bài học xử lý ngân hàng đổ vỡ tại Nhật Bản
Trong giai đoạn 20 năm đầu, phạm vi hoạt động của BHTG Nhật Bản khá hẹp, chủ yếu là chi trả cho người gửi tiền trong trường hợp tổ chức huy động tiền gửi bị đổ vỡ. Tuy nhiên, sau khi được trao quyền và mở rộng chức năng hoạt động, BHTG đã khẳng định được vai trò của mình trong hệ thống tài chính ngân hàng Nhật Bản, đặc biệt trong hoạt động xử lý ngân hàng đổ vỡ. Kinh nghiệm của Nhật Bản trong hoạt động xử lý này có thể nghiên cứu và áp dụng đối với hoạt động BHTG tại Việt Nam.
Cơ sở pháp lý
Trong quá trình triển khai các hoạt động, trong đó có hoạt động xử lý, cần phải có những điều chỉnh, sửa đổi và bổ sung của Luật định về thẩm quyền, chức năng, nguồn tài chính để phù hợp với thực tế phát triển của hoạt động ngân hàng. Chính vì có cơ sở pháp lý cao và sự điều chỉnh, sửa đổi kịp thời đã tạo điều kiện cho tổ chức DICJ có đủ thẩm quyền để triển khai các hoạt động xử lý, thực hiện tốt mục tiêu bảo vệ người gửi tiền, cũng như góp phần không nhỏ đối với việc phục hồi, ổn định hoạt động ngân hàng sau cải cách của Chính phủ Nhật Bản.
Đa dạng hóa các nghiệp vụ xử lý
DICJ đã triển khai hoạt động xử lý trong thời gian qua bằng nhiều nghiệp vụ đa dạng và khá linh hoạt, ngoài hoạt động chi trả, DICJ còn triển khai các hoạt động khác như hỗ trợ tài chính, mua lại tiền gửi, điều hành tài chính tổ chức bị đổ vỡ và thiết lập ngân hàng bắc cầu. Hoạt động hỗ trợ tài chính của DICJ đã cứu 182 ngân hàng, chủ yếu thông qua sáp nhập, nhờ đó một số lượng lớn các hãng chứng khoán và hãng bảo hiểm cũng được cứu sống. Trong khi Ngân hàng bắc cầu có thể duy trì và tiếp tục hoạt động tổ chức tài chính đổ vỡ, không gây ngừng trệ dịch vụ ngân hàng phục vụ cộng đồng. Nhờ vậy, các ngân hàng đổ vỡ được xử lý nhanh gọn và hiệu quả, góp phần củng cố và duy trì niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng Nhật Bản, đặc biệt là khi xảy ra khủng hoảng Ngân hàng tại Nhật Bản vào những năm 1980.
Nguồn tài chính và nhân lực
Để các hoạt động xử lý ngân hàng đổ vỡ triển khai có hiệu quả, nguồn tài chính và nhân lực để triển khai các nghiệp vụ này có thể được coi là điều kiện không thể thiếu. Để có thể triển khai nghiệp vụ xử lý, đặc biệt là cho hoạt động hỗ trợ tài chính và ngân hàng bắc cầu, nguồn tài chính cho các hoạt động này phải được tăng cường qua việc tăng phí BHTG và hạn mức DICJ vay từ ngân hàng Trung ương Nhật Bản tăng đều qua các giai đoạn. Nhân sự của DICJ được tăng cường đáng kể về cả số lượng và chất lượng để có thể đảm nhiệm tốt các hoạt động, trong đó chủ yếu là hoạt động xử lý, năm 1998 đội ngũ nhân sự của DICJ tăng hơn 22 lần và năm 2014 tăng hơn 26 lần so với số nhân sự năm 1995.
Lê Thị Hồng Hanh
Chi nhánh BHTGVN khu vực Hà Nội
Tài liệu tham khảo
DICJ, Annual Report qua các năm
http://www.dic.go.jp/english/e_katsudo/index.html
DICJ, As of April 2005- A Guide to the Deposit Insurance System - Outline of the System and Q &A.
Nguyễn Thị Kim Oanh, Thực tiễn triển khai chính sách bảo hiểm tiền gửi ở Nhật Bản, Tạp chí Ngân hàng, tháng 1/2009.