Tại Hội thảo Cải cách thị trường tài chính trong chiến lược tái cơ cấu nền kinh tế, tổ chức sáng 14/10/ 2013 tại Hà Nội, TS. Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương nhận định: “Ở Việt Nam, tuy chưa có một thống kê chính thức về các khoản vay ngầm, nhưng theo ước tính, cho vay ngoài hệ thống ngân hàng, hay còn gọi là tín dụng đen, bằng khoảng 30% tổng tín dụng do hệ thống ngân hàng cung cấp”. Với con số tạm tính như trên, có thể nhận thấy việc vay vốn ngoài hệ thống ngân hàng là một nhu cầu có thật và khá năng huy động vốn của kênh huy động vốn chính thức còn nhiều bất cập.
Nguồn tiền được cung ứng cho tín dụng đen hoạt động chủ yếu từ nguồn huy động trong hệ thống dân cư thông qua các đường dây “hụi họ”. Người dân gửi tiền vào tín dụng đen do bị hấp dẫn bởi mức lãi suất cao cũng như niềm tin vào tiềm lực tài chính của người đứng ra huy động. Bản thân người gửi tiền không ý thức được những rủi ro mà họ có thể gánh chịu khi bong bóng tín dụng đen bị vỡ.
Đầu ra cho hoạt động tín dụng đen cũng khá đa dạng, đó là những người cần vốn để kinh doanh, bà con nông dân cần tiền gấp để mua vật tư sản xuất khi vào vụ, hay khi gia đình cần gấp một khoản tiền để trang trải mà không thể tìm nguồn vay, người ta lại tìm đến tín dụng đen, chấp nhận mức lãi suất cao để giải quyết nhu cầu vốn trước mắt. Đặc biệt tín dụng đen có cơ hội phát triển mạnh khi thị trường bất động sản nóng lên, tăng giá chóng mặt từng ngày. Người ta sẵn sàng vay tiền để đầu tư vào bất động sản. Khi tín dụng ngân hàng bị siết chặt, thị trường bất động sản đóng băng, giá đất lao dốc dẫn đếnmất khả năng thanh toán của hệ thống tín dụng không chính thức. Lúc này những tờ giấy viết tay vay mượn trị giá hàng trăm hàng tỷ đồng không đủ sức mạnh pháp lý để giúp bà con thu hồi tiền, đường dây tín dụng đen bị đổ sụp kéo theo những hệ lụy vô cùng lớn.
Thực tế cho thấy, gửi và vay tiền tại hệ thống tín dụng chính thức là hình thức giao dịch an toàn nhất nhưng người dân vẫn tìm đến tín dụng đen vì những lý do như: Thứ nhất, người dân tham lãi suất cao và không ý thức được những rủi ro có thể gặp phải khi gửi tiền cho hệ thống tín dụng phi chính thức; Thứ hai, thủ tục cho vay tại hệ thống ngân hàng Việt Nam (NHVN) khá phức tạp với người dân, các dịch vụ ngân hàng đối với đa phần người dân là xa lạ và khó tiếp cận; Thứ ba, đối với những khoản vay cần tiền gấp không phải lúc nào hệ thống tín dụng chính thức cũng có khả năng đáp ứng kịp thời do còn vướng nhiều thủ tục phải hoàn thiện; Thứ tư, đối với các khoản vay nhỏ, khách hàng ngại tới ngân hàng và bản thân các ngân hàng cũng rất không thích cho vay món nhỏ vì lắt nhắt. Mặc dù những món cho vay quy mô nhỏ thường mang lại lợi nhuận cao và ít khi phát sinh nợ xấu.
Như vậy, để giải quyết được căn nguyên của tín dụng đen, phải khắc phục được những hạn chế của hệ thống tín dụng chính thức. Các tổ chức tín dụng cần hạ thấp chi phí và tăng hiệu quả trong hoạt động huy động cũng như cho vay. Nghiên cứu các sản phẩm tín dụng mới đặc biệt là tín dụng vi mô, hoặc các sản phẩm cho vay nhanh, thời gian ngắn với mức lãi suất đề xuất cao hơn các sản phẩm tín dụng thông thường.
Phát triển hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (TDND) cơ sở một cách hiệu quả được đánh giá là biện pháp khá hữu hiệu để ngăn chặn tín dụng đen. Do đặc điểm của các quỹ TDND cơ sở là bám sát địa bàn hoạt động theo phân chia địa giới hành chính từng xã, người dân tiếp cận các dịch vụ của quỹ TDND cơ sở khá dễ dàng với tâm lý thoải mái không mang tâm lí “ngại ngần” như đối với các dịch vụ được cung ứng từ ngân hàng. Đồng thời, mô hình tổ chức của quỹ TDND cơ sở cũng có những điều kiện lợi thế để triển khai các dịch vụ tín dụng vi mô, do đặc điểm cho vay trong nội bộ thành viên, người đi vay là người “trong làng”, “cùng xóm”, cán bộ tín dụng có thể nắm bắt và sâu sát khách hàng khá rõ, điều này giúp giảm thiểu các yêu cầu về tài sản thế chấp, giúp giảm thời gian đánh giá khách hàng và nhờ đó rút ngắn thời gian từ khi tiếp nhận hồ sơ vay đến lúc giải ngân. Đây là cơ sở để phát triển các món vay với thời gian giải ngân ngắn, và những món vay quy mô nhỏ, đáp ứng yêu cầu đa dạng về các sản phẩm tín dụng của người dân. Tuy nhiên một trong hạn chế của hệ thống quỹ TDND là khả năng cạnh tranh trong huy động vốn với các ngân hàng thương mại do hầu hết các tổ chức tín dụng quy mô nhỏ khó sánh bằng các ngân hàng thương mại quy mô lớn về uy tín trong huy động vốn. Đồng thời dấu ấn về sự đổ vỡ của hệ thống hợp tác xã tín dụng những năm 90 còn khá sâu đậm, do đó người dân khá e dè khi gửi tiền vào các quỹ TDND, điều này phần nào đã hạn chế khả năng huy động vốn và phát triển của hệ thống này.
Chính sách bảo hiểm tiền gửi (BHTG) được triển khai tại Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao khả năng huy động vốn của hệ thống tín dụng chính thức tại Việt Nam, đặc biệt đối với hệ thống quỹ TDND cơ sở. Việc triển khai chính sách BHTG với cam kết của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) khẳng định rằng tất cả các khoản tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm sẽ được bảo hiểm trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị phá sản, giải thể. Thông qua các hoạt động nghiệp vụ,BHTGVN đã đóng góp tích cực vào việc phát triển kênh huy động tín dụng chính thức. Người gửi tiền vào các tổ chức tín dụng cảm thấy yên tâm hơn khi tiền gửi của mình đã được bảo hiểm theo hạn mức quy định. Đồng thời qua hoạt động giám sát, BHTGVN cũng có khả năng kịp thời phát hiện những tổ chức tham gia BHTG có những bất ổn trong quá trình hoạt động, vi phạm quy định an toàn hoạt động ngân hàng từ đó có biện pháp tiếp cận để kiểm soát kịp thời, tránh những đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống, giúp đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền. BHTGVN đứng ra trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền trong trường hợp xảy ra đổ vỡ, từ đó góp phần củng cố niềm tin, ổn định an ninh trật tự và kinh tế địa phương. Như vậy, với sự tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng quy mô nhỏ có cơ hội phát triển bình đẳng đối với các tổ chức tín dụng quy mô lớn, thực hiện tốt chính sách BHTG tại Việt Nam sẽ góp phần hạn chế nạn tín dụng đen.
Luật BHTG đã có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013 là cơ sở pháp lý quan trọng để hoạt động BHTG có những bước tiến mới. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, một số quy định hiện hành về BHTG không còn phù hợp và cần được điều chỉnh để hoạt động BHTGVN được vận hành tốt hơn.
Thứ nhất, hạn mức trả tiền bảo hiểm hiện được quy định ở mức 50 triệu đồng/ người gửi tiền –thấp xa so với mức thu nhập của người dân và thông lệ quốc tế, không đủ để khuyến khích người dân gửi tiền vào các tổ chức tham gia BHTG. Do đó cần điều chỉnh hạn mức trả tiền bảo hiểmlên mức cao hơn, theo đề xuất của BHTGVN là khoảng 200 triệu đồng/người gửi tiền và kịp thời điều chỉnh khi cần thiết.
Thứ hai, cần có những quy định chế tài phù hợp để giúp BHTGVN tiếp cận được thông tin đầy đủ về tình hình hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG nhằm triển khai hiệu quả hoạt động giám sát, qua đó kịp thời phát hiện các tổ chức yếu kém, cảnh báo và ngăn chặn được các tổ chức đổ vỡ từ xa, tránh tổn thất cho người gửi tiền.
Tài liệu tham khảo:
- website Bảo hiểm tiền gửi Việt