Tình hình thanh lý giai đoạn 1999 đến 2012 (trước khi có Luật BHTG)
Từ năm 1999 đến 2004, với các quy định tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ (Nghị định 89) và Thông tư 03/2000/TT-NHNN5 ngày 16/3/2000 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Thông tư 03), BHTGVN đã mang lại niềm tin cho người gửi tiền tại hơn 1.100 TCTD thông qua việc thực hiện chi trả tiền bảo hiểm tại 33 quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) bị giải thể, phá sản với tổng số tiền trên 16 tỷ đồng. Các QTDND này hầu hết là ở khu vực nông thôn nên các khoản tiền gửi của khách hàng thường là khá nhỏ, trung bình 11 triệu đồng mỗi người. Công tác chi trả tiền bảo hiểm được người dân đánh giá cao vì sự nhiệt tình và giải quyết đúng chế độ, kịp thời bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.
Ngay sau khi chi trả tiền bảo hiểm, công tác thanh lý tài sản của các QTDND để thu hồi tiền trả cho các chủ nợ cũng lập tức được triển khai. Tuy vậy, công tác thanh lý là cả một quá trình rà soát, phân tích các khoản nợ, làm việc với các bên liên quan để tìm mọi biện pháp thích hợp nhằm thu hồi tiền cho các chủ nợ, trong đó có tiền chi trả bảo hiểm của BHTGVN. Vì vậy, quá trình này thường không kết thúc nhanh như dự tính ban đầu của các Hội đồng thanh lý (HĐTL) và thường nảy sinh thêm các vấn đề phức tạp do quy định pháp luật về thanh lý tài sản chưa chặt chẽ, dẫn đến có trường hợp bị lợi dụng, hiểu sai, làm sai.
BHTGVN cũng là đơn vị thường bị ảnh hưởng lớn nhất mặc dù Nghị định 89 (các Điều 20 và 21) và Thông tư 03 đã hướng dẫn chi tiết việc thanh lý và phân chia tài sản của các TCTD bị phá sản, giải thể được thực hiện theo Luật Phá sản doanh nghiệp ban hành năm 1993, trong đó BHTGVN được tham gia quá trình quản lý và thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG với tư cách là chủ nợ của tổ chức bị phá sản. Số tiền chi trả bảo hiểm và số tiền thu được từ các con nợ cũng sẽ được chia cho BHTGVN theo quy định của pháp luật.
Thực tế trong vòng 2 năm đầu, hoạt động mỗi HĐTL thường thu hồi được những khoản tiền tương đối lớn (chiếm khoảng 40% số tiền phải thu hồi cho BHTGVN), nhưng thời gian sau đó số tiền thu được rất thấp vì các khoản nợ còn lại đều là “nợ khó đòi” do người vay gặp hoàn cảnh khó khăn, không còn khả năng trả nợ.
Tỷ lệ thu hồi tiền trong thanh lý cho BHTGVN so với con số phải thu hồi thường dưới 10%. Nguyên nhân tỷ lệ thu hồi của BHTGVN chỉ đạt thấp như vậy vì số tiền thu được của các con nợ quá ít. Mặt khác, chi phí hoạt động để tham gia mỗi kỳ làm việc của HĐTL (phương tiện đi lại, điện thoại, công tác phí cho cán bộ...) nhiều khi còn cao hơn cả số tiền thu được. Thực tế này khiến cán bộ tham gia công tác thanh lý cũng kém tích cực. Chủ tịch HĐTL lại thường là người của chính quyền địa phương làm kiêm nhiệm nên dẫn đến có những HĐTL chỉ hoạt động “cầm chừng”. (Ở thời điểm đó thành viên HĐTL không có phụ cấp, khen thưởng khi làm công tác thu hồi nợ).
Các điều chỉnh pháp lý nhằm cải thiện tình hình thu nợ
Năm 2004, Luật các TCTD được sửa đổi, Luật Phá sản thay thế cho Luật Phá sản doanh nghiệp, nhưng các quy định về công tác thanh lý không có gì thay đổi. Thứ tự ưu tiên nhận tiền hoàn trả của BHTGVN vẫn xếp sau tiền vay của khách hàng, vay hỗ trợ của Nhà nước, vay Quỹ Tín dụng nhân dân trung ương. Cuối năm 2004, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 105/2004/TT-BTC ngày 09/11/2004 hướng dẫn chế độ chi phí thu hồi nợ cho công tác thanh lý các QTDND bị thu hồi giấy phép hoạt động hoặc đang phải tiến hành thanh lý giải thể. Tỷ lệ tiền được để lại chi cho HĐTL tăng từ 2% lên 10% đối với mỗi món nợ khó đòi thu được. Tuy vậy, các món nợ khó thu của QTDND đang trong quá trình thanh lý lại đa phần là những món ở mức dưới 5 triệu đồng, nghĩa là được để lại ít hơn 150 nghìn đồng để trả thù lao thu hồi nợ cho mỗi món. Mức này vẫn là quá thấp, không khuyến khích được các thành viên HĐTL tích cực trong việc thu hồi nợ.
Năm 2005 là một mốc quan trọng hoàn thiện cơ sở pháp lý cho công tác thanh lý các TCTD. Nghị định 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi Nghị định 89 để phù hợp hơn với hoàn cảnh mới. Thứ tự phân chia số tiền thu hồi được được quy định rõ: “BHTGVN được phân chia giá trị tài sản theo thứ tự thanh toán như đối với người gửi tiền”. Quy định này nhấn mạnh thứ tự ưu tiên nhận tiền nên cải thiện được khả năng thu hồi nợ cho BHTGVN. Món tiền thu hồi được chia theo tỷ lệ cho tất cả các khách hàng vay, trong đó có BHTGVN.
Việc gia hạn hay kết thúc thanh lý tại một TCTD hiện cũng chưa có quy định tiêu chuẩn cụ thể nào. Điều kiện thiếu cụ thể này dẫn đến việc thời hạn thanh lý được gia hạn rất nhiều lần mà kết quả thu hồi tiền rất thấp. Với những quy định tương đối rõ ràng nói trên, nhưng thực tế thu hồi tiền trong thanh lý cho BHTGVN vẫn thấp, nhiều kỳ làm việc của HĐTL không phát sinh thu chi.
Năm 2006, Quyết định 24/2006/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN Việt Nam đã quy định đầy đủ chi tiết về tất cả các vấn đề liên quan đến công tác thanh lý TCTD ở thời điểm này. Điều 32 của Quyết định 24 quy định BHTGVN được cử đại diện tham gia HĐTL và có thể được cử làm Chủ tịch hội đồng.
Điều 32 cũng đồng thời quy định thời hạn thanh lý QTDND tối đa là 06 tháng nhưng có thể gia hạn khi cần thiết với văn bản đồng ý của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh. Việc kết thúc thanh lý QTDND cũng được quy định rõ về thủ tục, trách nhiệm của các bên tham gia thanh lý. Tuy vậy, điều kiện để thực hiện thủ tục kết thúc thanh lý (trường hợp chưa trả hết nợ) lại chỉ quy định chung là khi hết thời hạn thanh lý, hoặc thấy không có khả năng thanh toán đủ cho các chủ nợ thì HĐTL có thể đề nghị cho kết thúc thanh lý.
Năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 05/2010/NĐ-CP ngày 18/01/2010 quy định về việc áp dụng Luật Phá sản cho các TCTD. Cùng năm đó Luật Các TCTD mới được Quốc hội ban hành thay thế cho Luật Các TCTD năm 1997. Luật mới quy định: các tổ chức tham gia BHTG nếu không có khả năng thanh toán hết các khoản nợ, việc chấm dứt hoạt động phải chuyển sang giải quyết theo thủ tục phá sản.
Tuy nhiên, thực tế các HĐTL không đệ đơn ra tòa đề nghị mở thủ tục phá sản vì việc này còn mới mẻ ở nước ta, thủ tục tương đối phức tạp, cơ quan nào xác định “không có khả năng thanh toán hết các khoản nợ” và xác định theo tiêu chuẩn nào cũng chưa rõ ràng. Hiện tại HĐTL vẫn thực hiện theo Quyết định số 24/2006/QĐ-NHNN ngày 6/6/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Theo đó, nếu QTDND bị mất khả năng thanh toán, khả năng chi trả do vi phạm pháp luật, NHNN xét thấy không thể tiếp tục duy trì hoạt động thì UBND tỉnh ra thông báo giải thể bắt buộc và NHNN thu hồi Giấy phép hoạt động. Có nghị định, có luật mới, song các quy định cụ thể về công tác thanh lý QTDND đang tiến hành không có gì thay đổi vì các QTDND vẫn thực hiện thanh lý theo quy định về giải thể bắt buộc chứ không phải là theo thủ tục phá sản. Để đảm bảo tính đồng bộ và hiệu lực của văn bản pháp luật, đề nghị cơ quan có thẩm quyền có hướng dẫn cụ thể việc thực hiện Luật các TCTD và Nghị định số 05/2010/NĐ-CP về việc áp dụng Luật phá sản đối với các TCTD cũng như sửa đổi nội dung của Quyết định số 24/2010/QĐ-NHNN cho phù hợp với 2 văn bản trên.
Còn vướng mắc như trên nên từ năm 2005 đến hết năm 2012 mặc dù luôn có sự phối hợp kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, đại diện chi nhánh NHNN và BHTGVN để bàn bạc phương án thu hồi nợ, đôn đốc nhắc nhở các con nợ (trong đó có những món nợ còn khả năng thu) nhưng tốc độ thu hồi nợ vẫn rất ì ạch.
Bảng kê dưới đây của năm 2012 cũng phản ánh được tình hình thanh lý và thu hồi nợ trong tổng số 1.100 QTDND hiện có :
Đơn vị : quỹ
Số QTDND hiện có |
Số QTDND đang thanh lý |
Số QTDND đã trả hết tiền thanh lý |
Tỷ lệ QTDND đã trả hết tiền thanh lý / QTDND đang thanh lý |
1.100 |
37 |
4 |
10,81 % |
Về phía NHNN, để đẩy nhanh tiến độ thanh lý, Thống đốc NHNN cũng đã có Chỉ thị số 01/2008/CT-NHNN ngày 29/01/2008 về tăng cường chỉ đạo thanh lý đối với các QTDND. Theo tinh thần chỉ thị này, các Chi nhánh NHNN cần tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát thanh lý QTDND, thường xuyên nắm bắt diễn biến tiến độ thu hồi nợ, hoàn trả và những vấn đề phát sinh trong quá trình thanh lý để có biện pháp chỉ đạo kịp thời nhằm góp phần đẩy nhanh tiến độ thanh lý QTDND trên địa bàn. Cần củng cố, kiện toàn bộ máy hoạt động của HĐTL. Đánh giá, rút kinh nghiệm những nội dung công việc đã triển khai trong quá trình thực hiện thanh lý nhưng chưa hiệu quả hoặc hiệu quả còn thấp và chưa đạt kế hoạch đề ra, từ đó đôn đốc chỉ đạo tăng cường trách nhiệm của các cá nhân và tập thể HĐTL trong quá trình thực hiện thanh lý.
Sau 5 năm triển khai, mặc dù NHNN và chính quyền địa phương ở những nơi có QTDND bị giải thể, phá sản đã cố gắng tập trung chỉ đạo, đôn đốc nhưng hiệu quả thanh lý vẫn còn thấp, biểu hiện là công tác thu hồi nợ tiến triển chậm, có biểu hiện trì trệ, tình trạng thời gian thanh lý kéo dài, cơ quan quản lý có thẩm quyền phải gia hạn thanh lý nhiều lần.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến công tác thanh lý các QTDND kém hiệu quả. Phần lớn các khoản phải thu là nợ cho vay khó đòi, không còn khả năng thu đã quá hạn nhiều năm, thậm chí từ trước khi QTDND bắt đầu thực hiện thanh lý. Những khoản nợ này do người vay quá nghèo, làm ăn thua lỗ hoặc gặp khó khăn dẫn đến không có khả năng trả nợ.
Ngược lại, cũng có số ít đối tượng có khả năng trả nợ nhưng chây ỳ không chịu trả. Hiện chưa có chế tài thích hợp xử lý trường hợp cố tình cố tình không trả nợ hoặc trả sai đối tượng theo thứ tự quy định. Quy định của pháp luật hiện nay là chủ tịch HĐTL có quyền khởi kiện những con nợ chây ỳ. Tuy nhiên, việc khởi kiện rất phức tạp, tốn kém và mất thời gian mà hiệu quả không cao. Có trường hợp cán bộ địa phương tham ô bị khởi tố hoặc cố tình trốn nợ khiến các con nợ khác cũng bắt chước trốn nợ.
Thứ tự ưu tiên hoàn trả tiền thu được vẫn thường bị vi phạm. BHTGVN có văn bản báo cáo lên Ban chỉ đạo thanh lý QTDND thuộc NHNN nhưng cũng chưa có biện pháp xử lý mạnh hơn việc nhắc nhở cảnh cáo.
Cần sớm có quy định chi tiết về công tác thanh lý QTDND
Năm 2013, Luật BHTG có hiệu lực thi hành. Chính phủ cũng đã có Nghị định 68/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật. Nhiều quy định trong nghị định 89 và nghị định 109 trước đây bị bãi bỏ. Hiện tại vẫn chưa có hướng dẫn chi tiết của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về thực hiện Nghị định 68 nên kết quả thu hồi nợ cũng chưa khả quan hơn. Trong hơn 1 năm qua, BHTGVN chỉ thu lại được thêm 1,01 tỷ đồng, đưa tổng số thu hồi lên 9,19 tỷ đồng bằng 42,1% số tiền đã chi trả bảo hiểm.
Công tác thanh lý QTDND hiện rất cần những quy định chi tiết cụ thể khắc phục được những nguyên nhân cản trở thu hồi tiền cho BHTGVN đã nói trên. Cụ thể:
Thứ nhất, NHNN sớm ban hành Thông tư hướng dẫn thi hành Luật BHTG, trong đó hướng dẫn cụ thể các trường hợp chưa quy định, hướng dẫn cụ thể, rõ ràng về thanh lý tài sản.
Thứ hai, tăng thời hạn thanh lý, mỗi lần gia hạn lên 1 năm thay vì 6 tháng như hiện nay để phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của các đối tượng nợ và cũng tránh gia hạn thời hạn thanh lý quá nhiều lần. Đề nghị hướng dẫn phân loại nợ trong quá trình thanh lý và cho kết thúc thanh lý nếu sau 05 năm chưa thu hồi được hết tiền (khoảng thời gian đủ dài để các khoản nợ còn lại phần lớn chỉ còn là thuộc loại không thu hồi được).
Thứ ba, hiện nay mức thù lao cá nhân thu nợ tính bằng 3% mỗi món tiền thu được và không quá 3 triệu đồng. Khuyến nghị nên tăng mức mức này lên tối đa 5% giá trị món tiền thu hồi được đối với món tiền thu được sớm (có thể là trong vòng 2 năm kể từ ngày chi trả tiền bảo hiểm) để động viên, khuyến khích hơn nữa cán bộ tham gia hoạt động thanh lý.
Thứ tư, có chế tài xử lý các trường hợp cố tình chây ỳ trả nợ và trả sai thứ tự ưu tiên quy định trước khi áp dụng hình thức chủ tịch HĐTL quyết định khởi kiện như hiện nay.
Thứ năm, đề nghị bổ sung quy định về thông tin, báo cáo kết quả thanh lý của các HĐTL cho BHTGVN để chủ động phối hợp tham gia vào hoạt động thanh lý.
Tài liệu tham khảo:
- Luật BHTG, Luật các TCTD
- Nghị định số 68/NĐ-CP Hướng dẫn luật BHTG
- Nghị định 89/NĐ-CP, 109/NĐ-CP; Thông tư 03/2000/TT-NHNN5
- Quyết định 24/2006/QĐ-NHNN
- Các báo cáo của DIV