Trong hơn 10 năm thành lập hệ thống BHTGVN, các cơ quan có thẩm quyền và BHTGVN luôn hướng tới việc xây dựng hệ thống văn bản pháp lý quy định, hướng dẫn việc tính và nộp phí BHTG đảm bảo khoa học, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn tại Việt Nam nhằm thúc đẩy các TCTGBHTG không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động cũng như đảm bảo cho việc tính phí được dễ dàng, chính xác.
Những kết quả đạt được khi thực hiện tính và nộp phí theo Nghị định 89 và 109
Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 (Nghị định 89) về BHTG là văn bản pháp lý đầu tiên quy định các nội dung của việc tính và nộp phí BHTG, là căn cứ để BHTGVN thực hiện hướng dẫn các TCTGBHTG trong việc tính và nộp phí. Theo quy định tại Nghị định này, tiền gửi được bảo hiểm là đồng Việt Nam của các cá nhân gửi tại TCTGBHTG với mức phí đồng hạng 0,15%/năm tính trên số dư tiền gửi được bảo hiểm áp dụng với tất cả các TCTGBHTG không phân biệt quy mô, chất lượng hoạt động của TCTGBHTG. Ưu điểm của cách tính phí này được cho là đơn giản, dễ thực hiện nhất làtại thời điểm ban hành, khi Việt Nam chưa có cơ quan nào thực hiện việc đánh giá, phân loại chính xác chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng. Đây cũng là phương thức đã được nhiều tổ chức BHTG trên thế giới lựa chọn áp dụng trong giai đoạn đầu hoạt động.
Nghị Định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 (Nghị định 109) về việc sử đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89 quy định: Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của người gửi tiềnlà cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại TCTGBHTG, với mức phí đồng hạng không thay đổi (0,15%/năm). So với Nghị định 89, Nghị định 109 đã mở rộng thêm đối tượng được được BHTG. Như vậy, từ khi thành lập (tháng 11/1999) đến năm 2006, hệ thống văn bản hướng dẫn tính và nộp phí theo mức phí đồng hạng (0,15%/năm) đã cơ bản hoàn thiện và đi vào nề nếp. Các TCTGBHTG đã có ý thức chấp hành tốt các quy định tính và nộp phí BHTG, hạn chế các sai sót trong việc tính và nộp phí BHTG. Mức tăng trưởng phí BHTG hàng năm khoảng 30% được bổ sung vào Quỹ nghiệp vụ của BHTGVN, góp phần nâng cao năng lực tài chính của BHTGVN để thực hiện nghiệp vụ BHTG.
Bảng: số phí BHTG các tổ chức tham gia BHTG nộp giai đoạn 2006 đến 2012
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm |
Số phí BH |
Tỷ lệ phí BH tăng so với năm trước liền kề |
2006 |
347.915 |
|
2007 |
481.389 |
38% |
2008 |
683.426 |
50% |
2009 |
949.255 |
38% |
2010 |
1.198.539 |
26% |
2011 |
1.617.885 |
35% |
2012 |
2.057.316 |
27% |
Tổng cộng |
7.335.725 |
|
( Nguồn: Phòng Xử lý nợ BHTGVN)
Những điểm mới về tính và nộp phí BHTG theo Luật BHTG
Luật BHTG đã được Quốc hội thông qua và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 2013 là văn bản pháp lý cao nhất giúp hoạt động của BHTGVN nói chung và công tác tính, nộp phí BHTG nói riêng chuyển sang một giai đoạn mới. Trong đó những thay đổi căn bản liên quan đến nghiệp vụ phí BHTG là:
Thứ nhất, đối tượng được bảo hiểm
Luật BHTG quy định tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt
Việc những đối tượng nêu trên không được bảo hiểm theo quy định tại Luật BHTG là phù hợp. Những đối tượng trên chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số người gửi tiền và họ thường có số dư tiền gửi rất nhỏ. Mặt khác, mục tiêu của chính sách BHTG là bảo vệ những người gửi tiền nhỏ lẻ mang tính chất tiết kiệm, không vì mục đích kinh doanh.
Thứ hai, mức phí BHTG
Theo Luật BHTG, phí BHTG có sự thay đổi căn bản, từ mức phí đồng hạng (tất cả các TCTGBHTG đều đóng chung một mức phí tính trên số dư bình quân tiền gửi) thì nay việc tính và nộp phí được xác định theo mức độ rủi ro với các tỷ lệ phí khác nhau giữa các TCTGBHTG. Theo đó, TCTGBHTG được đánh giá có mức độ rủi ro thấp thì nộp phí theo tỷ lệ thấp, tổ chức tham gia có mức độ rủi ro cao hơn thì nộp mức phí cao hơn. Hình thức này được cho là tạo ra sự công bằng, tránh cào bằng giữa các TCTGBHTG, khuyến khích các TCTGBHTG nâng cao chất lượng hoạt động để được hưởng mức phí thấp.
Những khó khăn hiện tại trong công tác tính và nộp phí
Tính đến thời điểm hiện tại, Luật BHTG đã có hiệu lực thi hành được tròn 1 năm. Luật không quy định một mức phí hay một khung phí cứng mà giao cho Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí BHTG theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước. Căn cứ vào khung phí BHTG, Ngân hàng Nhà nước quy định mức phí BHTG cụ thể đối với TCTGBHTG trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức này. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại NHNN Việt Nam vẫn chưa ban hành văn bản hướng dẫn việc tính và nộp phí BHTG theo mức độ rủi ro của TCTGBHTG. Việc tính và nộp phí BHTG đối với TCTGBHTG vẫn thực hiện theo các quy định cũ.
Như vậy, việc đánh giá, phân loại các TCTGBHTG được áp dụng mức tính phí như thế nào phụ thuộc vào Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Việc áp dụng mức phí theo rủi ro của TCTGBHTG chắc chắn mất nhiều thời gian bởi việc xây dựng tiêu chí để phân loại, đánh giá chất lượng hoạt động của TCTGBHTG còn gặp nhiều khó khăn. Trong thời điểm hiện tại với năng lực và điều kiện thực tế của hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam, việc áp dụng chỉ tiêu của Basel II về hệ thống quản lý rủi ro được cho là hợp lý mặc dù việc tiếp cận với các chuẩn mực của Basel đòi hỏi kỹ thuật phức tạp và chi phí khá cao. Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ tài chính – ngân hàng với nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng mới, việc từng bước áp dụng các chuẩn mực Basel tại Việt Nam là yêu cầu cấp thiết nhằm tăng cường năng lực hoạt động, giảm thiểu rủi ro đối với các ngân hàng thương mại.
Kinh nghiệm của BHTG một số nước áp dụng phí theo rủi ro như Canada hay Đài Loan thì mức phí rủi ro được phân làm 3 hoặc 4 mức với mức độ chênh lệch giữa các mức không lớn. Tại Đài Loan gồm 3 mức 0,05%, 0,055% và 0,06%. Nếu có sự chênh lệch quá lớn giữa các mức phí có thể dẫn tới tâm lý muốn gửi tại các TCTGBHTG có mức độ rủi ro thấp, mức phí bảo hiểm thấp. Mức phí này cũng có thể linh hoạt thay đổi tùy theo tình hình kinh tế tốt hay xấu hoặc theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước đối với từng TCTGBHTG tại từng thời điểm.
Mặc dù Luật BHTG đã có hiệu lực nhưng các văn bản hướng dẫn dưới Luật chưa được ban hành. Do đó, để công tác tính và nộp phí BHTG không bị gián đoạn, đảm bảo tính liên tục, BHTGVN đã có công văn số 11/CV-BHTG115 ngày 14/1/2013 hướng dẫn việc tính và nộp phí theo Luật BHTG trong đó, hướng dẫn các TCTGBHTG cách thức tính phí bảo hiểm, mức tính phí bảo hiểm, mức phạt chậm nộp phí được quy định tại Luật BHTG.
Kiến nghị, đề xuất.
Đối với Ngân hàng Nhà nước:
Ngân hàng Nhà nước cần sớm ban hành Thông tư hướng dẫn thi hành Luật BHTG, trong đó quy định cụ thể một số nội dung sau:
- Về mức phí áp dụng
+ Mức phí BHTG áp dụng đối với từng TCTGBHTG, mức phí này có thể xem xét thay đổi theo định kỳ 1 năm, 2 năm.
+ Mức phí cũng có thể thay đổi đối với từng đơn vị theo thời điểm khi Ngân hàng Nhà nước xem xét các tiêu chí của TCTGBHTG có sự biến động tích cực hoặc tiêu cực.
- Về xử lý các trường hợp vi phạm
+ Theo quy định tại Luật BHTG, hạn nộp phí cuối cùng là ngày 20 tháng đầu tiên của quý kế tiếp. Nếu TCTGBHTG chậm nộp sẽ bị phạt với mức 0,05% một ngày trên số tiền chậm nộp. Kiến nghị đề ra là nếu hạn nộp phí cuối cùng trùng vào các ngày nghỉ lễ Tết, ngày nghỉ cuối tuần cần được tính vào ngày làm việc kế tiếp vì trên thực tế, các TCTGBHTG là các đơn vị kinh doanh nên phải tính hiệu quả sử dụng vốn.
+ Cần phải xem xét miễn phạt chậm nộp cho các đơn vị mà nguyên nhân chậm nộp là khách quan bất khả kháng như: do lỗi phần mềm tin học, lối do chuyển tiền của đơn vị chuyển tiền …., khi đơn vị có giải trình cụ thể bằng văn bản thì có thể xem xét miễn phạt chậm nộp cho đơn vị.
1. Đối với các TCTGBHTG:
Kịp thời cập nhật các văn bản mới, thực hiện theo các hướng dẫn của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và BHTGVN trong việc tính và nộp phí.
2. Với BHTGVN:
+ Thông báo, hướng dẫn kịp thời, đầy đủ cho các TCTGBHTG mức phí cũng như việc tính và nộp phí BHTG khi Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư hướng dẫn thi hành Luật BHTG.
+ Thường xuyên nắm bắt tình hình hoạt động, những khó khăn vướng mắc của TCTGBHTG trong việc tính và nộp phí BHTG để có những biện pháp xử lý kịp thời phù hợp với quy định của Luật BHTG;
+ Đôn đốc TCTGBHTG thực hiện tốt chế độ thông tin báo cáo, tuân thủ đúng quy trình quy định trong việc thu phí.
TL tham khảo:
- Nghị định 89/1999/ND-CP ngày 1/9/1999
- Nghị định 109/2005/ND-CP ngày 24/8/2005
- Thông tư 03/2006/TT NHNN ngày 25/4/2006
- Báo cáo nghiên cứu giám sát phí (P.GSII –BHTGVN)
- Báo cáo thu phí (P.XLN-BHTGVN)