Để thực hiện tốt công tác kiểm tra, CN đã chủ động xây dựng đề cương, kế hoạch kiểm tra bám sát theo hướng dẫn chung của BHTGVN và phù hợp với hoạt động thực tế tại từng đơn vị. Bên cạnh đó, CN đã chủ động phối hợp với Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tại địa bàn có QTD được kiểm tra; thông báo kế hoạch, đề cương kiểm tra cho từng đơn vị và yêu cầu chuẩn bị tài liệu, sổ sách phục vụ cho công tác Đoàn kiểm tra. Các đơn vị được kiểm tra có bước chuẩn bị tốt như: phân công cán bộ phối hợp với Đoàn kiểm tra, bố trí chỗ làm việc, cung cấp đầy đủ các hồ sơ tài liệu theo yêu cầu, tạo điều kiện tốt để các Đoàn kiểm tra làm việc. Từ đó, công tác kiểm tra được triển khai nhanh chóng, thuận lợi, rút ngắn được thời gian công tác, đúng kế hoạch đề ra và đạt chất lượng cao.
Qua kết quả kiểm tra thực tế, nhìn chung các đơn vị chấp hành khá tốt quy định của pháp luật về BHTG như: bổ sung hồ sơ pháp lý tham gia BHTG khi có thay đổi; niêm yết Chứng nhận BHTG, Nội dung của việc BHTG và các chế độ thông tin báo cáo theo yêu cầu của BHTGVN; tính và nộp phí BHTG; việc tuyên truyền chính sách BHTG đến người gửi tiền cũng được các đơn vị quan tâm thực hiện nhằm thu hút khách hàng và tăng cường khả năng huy động. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại sai sót trong việc tính phí BHTG dẫn đến nộp thừa, thiếu phí BHTG theo kết quả kiểm tra. Theo đó, có 12/13 QTD được kiểm tra tính sai phí BHTG (tỷ lệ 92,31%) nguyên nhân chủ yếu là (i) loại trừ chưa đúng số dư tiền gửi các đối tượng không được bảo hiểm (7 QTD với tổng số tiền tính sai là 1.112 nghìn đồng); (ii) Không loại trừ số dư tiền gửi của thành viên góp vốn >5% vốn điều lệ theo quy định của Luật BHTG (4 QTD với tổng số tiền là 9.503 ngđ); (iii) không loại trừ số dư tiền gửi các đối tượng không được bảo hiểm theo quy định (1 QTD với số tiền là 41ngđ).
Biện pháp xử lý theo kết quả kiểm tra:
Qua kết quả kiểm tra việc tuân thủ các quy định của pháp luật về BHTG tại các đơn vị còn sai sót, Chi nhánh đã kết luận và đề nghị đơn vị quan tâm nghiên cứu Luật bảo hiểm tiền gửi cũng như các văn bản có liên quan, đặc biệt là quy định các đối tượng không được bảo hiểm khi tính và nộp phí BHTG để áp dụng đúng với quy định. Các trường hợp tính phí BHTG thừa so với quy định Chi nhánh đã đề nghị đơn vị nghiên cứu thực hiện tốt hơn và cấn trừ vào kỳ nộp phí gần nhất sau kết luận kiểm tra. Tương tự, đối với các trường hợp tính và nộp phí thiếu tại các QTD, xét thấy đây là sai sót về mặt số học trong quá trình tính toán không mang tính chất cố ý, số phí thiếu không liên tục nhiều kỳ và không nhiều hơn ½ số phí trung bình của 1 kỳ nộp phí BHTG của QTD được kiểm tra nên Chi nhánh đã không đề nghị xử phạt và nộp bổ sung ngay mà đề nghị nộp bổ sung vào kỳ nộp phí gần nhất sau Kết luận kiểm tra.
Một số khó khăn vướng mắc và đề xuất:
Hiện nay nghiệp vụ kiểm tra của BHTGVN đối với tổ chức tham gia BHTG được thực hiện theo quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi “Theo dõi, kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về bảo hiểm tiền gửi; kiến nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xử lý hành vi vi phạm quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi’. Tuy nhiên, đến nay chưa có hướng dẫn cũng như quy định cụ thể BHTGVN kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi đối với tổ chức tham gia BHTG bao gồm kiểm tra những nội dung nào mà chủ yếu vẫn thực hiện theo hướng dẫn của BHTGVN mà căn cứ để thực hiện không có nhiều thay đổi so với các Nghị định, Thông tư hướng dẫn trước khi Luật BHTG có hiệu lực, do đó chưa phát huy hết tính chủ động, vai trò của BHTGVN trong việc phát hiện các sai sót tại tổ chức tham gia BHTG là QTD ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền như: QTD áp dụng lãi suất huy động tiền gửi cao hơn quy định nhằm huy động nhiều để bù đắp thiếu hụt thanh khoản hoặc cho vay với lãi suất cao dẫn đến rủi ro cao hơn ảnh hưởng không tốt đến tiền gửi khách hàng; ghi chép thông tin người gửi chưa đầy đủ trên hồ sơ gửi tiền dẫn đến người gửi chịu rủi ro khi vô tình mất sổ tiền gửi hoặc có tranh chấp, gây khó khăn cho người gửi tiền khi có chi trả (nếu có). Vì vậy, để công tác kiểm tra của BHTGVN đạt hiệu quả và chất lượng cao, thiết nghĩ khi BHTGVN xây dựng đề cương kiểm tra cần chú trọng một số nội dung chính sau:
Một là, việc kiểm tra số dư tiền gửi của từng khách hàng dưới hình thức tài khoản tiền gửi (được hạch toán vào tài khoản 421), đề cương phải nêu rõ việc kiểm tra hồ sơ mở tài khoản của khách hàng nhằm xác định chính xác người mở tài khoản tiền gửi là cá nhân, tránh trường hợp người đứng tên chủ tài khoản là đại diện của một tổ chức.
Hai là, việc kiểm tra tiền gửi tiết kiệm của khách hàng (được hạch toán vào tài khoản 422), đề cương yêu cầu kiểm tra thẻ lưu tiền gửi tiết kiệm, sổ kế toán chi tiết, nhật ký quỹ và các chứng từ có liên quan, nhằm đảm bảo việc mở sổ tiết kiệm đúng quy định pháp luật; việc ghi chép các yếu tố liên quan đến cá nhân người gửi (số chứng minh thư, địa chỉ, lãi suất, kỳ hạn, tính lãi phải trả cho khách hàng…) có tính chính xác cao, tránh trường hợp người mở sổ tiền gửi là tổ chức (lợi dụng mức lãi suất).
Ba là, việc kiểm tra thực trạng hồ sơ pháp lý được lưu tại đơn vị, đề cương kiểm tra nên bỏ nội dung này, vì việc kiểm tra nội dung này chỉ mang tính xem xét là chính, do việc thay đội các nội dung này đều phải được thông qua ngân hàng nhà nước cấp tỉnh (thành phố) nơi QTDND đóng trụ sở.
Bốn là, đề cương nên yêu cầu thời điểm lấy kết quả xếp loại của Ngân hàng nhà nước tỉnh (thành phố) nơi QTDND đóng trụ sở để làm căn cứ đánh giá chung về hoạt động của đơn vị cũng như làm căn cứ xếp loại QTDND khi thực hiện nộp phí theo mức độ rủi ro (nếu được Chính phủ sớm quy định).