Chính sách BHTG trong bối cảnh đổi mới kinh tế Việt Nam
Giai đoạn sau Đổi mới (1986) chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam, bao gồm sự mở rộng nhanh chóng của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng (TCTD). Tuy nhiên, cùng với cơ hội, giai đoạn này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt là thiếu hụt các cơ chế bảo vệ người gửi tiền trước nguy cơ đổ vỡ của các tổ chức tài chính yếu kém.
Sự cần thiết của BHTG trở nên cấp bách vào cuối những năm 1990, khi nhiều hợp tác xã tín dụng trên cả nước bị đổ vỡ, gây ra tình trạng hoang mang, mất niềm tin sâu sắc trong công chúng gửi tiền và tiềm ẩn nguy cơ bất ổn xã hội. Chính bối cảnh này đã thúc đẩy sự ra đời của BHTG vào năm 1999.
Việc áp dụng BHTG tại Việt Nam là phản ứng chính sách kịp thời trước những biến động của nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn chuyển đổi, thể hiện cam kết bảo vệ người gửi tiền của Đảng và Nhà nước trong quá trình cải cách kinh tế.
Việc phổ biến chính sách BHTG tới người dân được tổ chức thường xuyên
Nỗ lực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền
Nền móng pháp lý đầu tiên cho chính sách BHTG tại Việt Nam được đặt vào ngày 1/9/1999 với việc Chính phủ ban hành Nghị định 89/1999/NĐ-CP. Ngay sau đó, ngày 9/11/1999, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg thành lập tổ chức BHTG để triển khai chính sách này.
Để nâng cao cơ sở pháp lý và vị thế của hoạt động BHTG, ngày 18/6/2012, Quốc hội đã thông qua Luật BHTG, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2013. Đây là một bước tiến quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cao nhất cho hoạt động BHTG và khẳng định vai trò của tổ chức BHTG trong hệ thống các cơ quan bảo đảm an toàn tài chính quốc gia. Luật BHTG quy định rõ ràng mục đích, nguyên tắc hoạt động, đối tượng áp dụng, tiền gửi được bảo hiểm, phí bảo hiểm, hạn mức và thủ tục chi trả tiền bảo hiểm, cũng như tổ chức và hoạt động của tổ chức BHTG.
Luật Các TCTD năm 2017 và năm 2024 tiếp tục có những quy định mới về BHTG, mở rộng phạm vi và đối tượng tham gia vào xử lý các TCTD yếu kém, cho thấy sự quan tâm và hoàn thiện liên tục của khung pháp lý về BHTG.
Quá trình phát triển từ Nghị định lên Luật cùng với việc liên tục cập nhật trong các Luật chuyên ngành khác (Luật Các TCTD), thể hiện một lộ trình phát triển chính sách có hệ thống, minh bạch và thích ứng. Điều này phản ánh cam kết lâu dài của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng một nền tảng pháp lý vững chắc cho hoạt động bảo vệ người gửi tiền. Sự chuyển đổi từ một Nghị định ban đầu sang một Luật chuyên biệt (Luật BHTG) cho thấy sự nâng tầm đáng kể về địa vị pháp lý và tầm quan trọng của chính sách; đồng thời thể hiện một quá trình lập pháp năng động và thích ứng với một tầm nhìn dài hạn cho quản trị kinh tế, gắn với ưu tiên bảo đảm ổn định xã hội.
Tính đến cuối năm 2024, hơn 9 triệu tỷ đồng của gần 127 triệu lượt người gửi tiền tại 1.278 tổ chức tham gia BHTG (bao gồm 96 ngân hàng thương mại và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1.177 quỹ tín dụng nhân dân, 1 ngân hàng hợp tác xã và 4 tổ chức tài chính vi mô) được bảo vệ bởi chính sách BHTG
Hạn mức trả tiền bảo hiểm đã được điều chỉnh tăng lên qua các thời kỳ, bảo đảm bảo vệ được số đông người gửi tiền, phù hợp với thông lệ quốc tế, thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích cho người dân, đặc biệt là người gửi tiền nhỏ lẻ.
Tổ chức BHTG đã trực tiếp chi trả tiền gửi cho người gửi tiền tại các quỹ tín dụng nhân dân bị đổ vỡ ngay trong những năm đầu thành lập, như tại Kiên Giang và Hải Dương, giúp ổn định tâm lý người gửi tiền, củng cố niềm tin vào hệ thống ngân hàng và chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ người gửi tiền.
BHTG đặc biệt chú trọng bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền nhỏ lẻ và dễ bị tổn thương, những đối tượng thường thiếu thông tin về tình hình hoạt động của TCTD và dễ bị ảnh hưởng bởi các sự cố tài chính.
BHTG không chỉ bảo vệ tài sản cá nhân mà còn là công cụ hữu hiệu góp phần duy trì sự ổn định tâm lý và trật tự xã hội trong bối cảnh thị trường tài chính có nhiều biến động. Điều này thể hiện rõ nét mục tiêu an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước, lấy con người làm trung tâm, với các cải cách kinh tế được cân bằng với bảo đảm an toàn xã hội, thúc đẩy niềm tin của công chúng không chỉ vào hệ thống tài chính mà còn vào chính quyền.
Để bảo vệ người gửi tiền, cùng với các nghiệp vụ BHTG được triển khai đồng bộ như giám sát, kiểm tra, tham gia kiểm soát đặc biệt tổ chức tham gia BHTG…, tổ chức BHTG còn tích cực phổ biến kiến thức về BHTG nhằm nâng cao hiểu biết của người gửi tiền và công chúng. Các hoạt động tuyên truyền được triển khai đa dạng qua nhiều kênh (phát thanh, truyền hình, báo in, báo điện tử, website, sự kiện, bưu điện...), với các sản phẩm tuyên truyền phong phú (tờ thông tin, tờ rơi, poster…). Mục tiêu đến năm 2025 có 45% và năm 2030 có 55% người gửi tiền nắm bắt được các nội dung cốt lõi của chính sách BHTG, thể hiện sự chú trọng nâng cao nhận thức, hiểu biết tài chính cho người dân. Bởi an ninh kinh tế không chỉ là bảo đảm an toàn tài chính mà còn là trao quyền cho công dân bằng kiến thức, từ đó thúc đẩy người dân tham gia các hoạt động tài chính chính thức. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với một nền kinh tế thị trường đang phát triển - đảm bảo lợi ích của cải cách kinh tế được tất cả các tầng lớp xã hội hiểu và tiếp cận rộng rãi.
Có thể thấy, tại Việt Nam, BHTG được triển khai với sứ mệnh cốt lõi là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, đồng thời góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD và đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. BHTG thể hiện nỗ lực của Đảng, Nhà nước ta trong việc xây dựng một hệ thống tài chính vững chắc và bảo vệ lợi ích của người dân.
Sự phát triển của chính sách BHTG tại Việt Nam là minh chứng rõ ràng cho tầm nhìn chiến lược, sự lãnh đạo nhất quán và cam kết mạnh mẽ của Đảng, Nhà nước trong công cuộc đổi mới nền kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Không chỉ giải quyết các vấn đề tài chính, chính sách BHTG còn góp phần quan trọng vào việc ổn định tâm lý xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững bằng cách thúc đẩy huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vào hệ thống ngân hàng.
PV