PV: Thưa ông, để góp phần vào thành công chung của tổ chức, khoa học công nghệ đã được áp dụng vào các công tác nghiệp vụ của BHTGVN như thế nào?
Ông Nguyễn Mạnh Dũng:
Năm 2014 là năm thứ 15 BHTGVN chính thức đi vào hoạt động. Trong 15 năm qua, chúng tôi đã xây dựng chiến lược phát triển dựa trên 5 trụ cột phát triển bền vững: Tru cột thứ nhất là xây dựng, củng cố cơ sở hạ tầng pháp lý; thứ hai, củng cố năng lực tài chính và đảm bảo tính minh bạch hệ thống; thứ ba, hội nhập quốc tế; thứ tư, phát trển nguồn nhân lực và trụ cột thứ năm rất quan trọng là hiện đại hóa hoạt động BHTG dựa trên nền tảng CNTT. Điều đó chứng tỏ, Ban lãnh đạo BHTGVN đã chú trọng phát triển CNTT, coi đó là động lực không thể thiếu cho sự phát triển bền vững. Thời gian qua, BHTGVN đã tham gia Dự án hiện đại hóa ngân hàng, gọi tắt là FSMIMS. Đây là Dự án do Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ nhằm hỗ trợ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam, Trung tâm thông tin tín dụng và BHTGVN nâng cao chất lượng thực hiện các chức năng chính của mình phù hợp với chuẩn quốc tế cho khu vực ngân hàng. Riêng hợp phần của BHTGVN là hợp phần lớn, mục tiêu nhằm xây dựng quy trình nghiệp vụ mới, tiệm cận với tiêu chí quốc tế. Sau khi dự án kết thúc, toàn bộ hoạt động của BHTGVN được thực hiện trên nền tảng CNTT hiện đại.
PV: Dự án FSMIMS hoàn thành sẽ có vai trò như thế nào trong việc hiện đại hóa hoạt động của BHTGVN, thưa ông?
Ông Nguyễn Mạnh Dũng: Được triển khai từ năm 2008 và đang trong giai đoạn hoàn thành một cách nghiêm túc và chuyên nghiệp, dự án FSMIMS đóng vai trò cốt lõi trong việc thực hiện chiến lược phát triển BHTGVN, đó là hiện đại hóa các hoạt động nghiệp vụ BHTG dựa trên nền tảng CNTT. Thành công của dự án sẽ mang lại nhiều lợi ích cho BHTGVN, bao gồm: Đào tạo nâng cao năng lực nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ; phát triển đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và hội nhập quốc tế; cải thiện vấn đề chia sẻ thông tin giữa các đơn vị trong nội bộ BHTGVN cũng như giữa BHTGVN với Ngân hàng Nhà nước, Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) và các tổ chức tham gia BHTG, tạo ra tính đồng bộ trong nền tảng CNTT của các cơ quan này. Và hơn hết, dự án góp phần ổn định, lành mạnh hệ thống ngân hàng, giúp đơn vị thụ hưởng hội nhập quốc tế, thông qua việc đạt được các thông lệ tốt nhất trong hoạt động của mình.
PV: Xin ông nói rõ hơn về những thành công mới trong việc áp dụng CNTT với việc bảo vệ người gửi tiền và giám sát an toàn lành mạnh hệ thống tài chính ngân hàng?
Ông Nguyễn Mạnh Dũng: Hiện nay, dù đang trong quá trình triển khai, dự án FSMIMS đã bước đầu có tác dụng. Điều này sẽ càng được phát huy khi hoàn thành vào năm 2016. BHTGVN có 2 nhiệm vụ: bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, góp phần đảm bảo an toàn lành mạnh hệ thống ngân hàng.
Thứ nhất, đối với công tác trả tiền bảo hiểm, nếu như thời hạn trả tiền bảo hiểm theo quy định là 60 ngày kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm thì sau này, khi CNTT phát triển, quy trình này sẽ rút ngắn xuống chỉ còn 15 ngày.
Thứ hai, trong công tác giám sát từ xa, bằng những chỉ tiêu và mô hình giám sát thực hiện trên nền tảng CNTT hiện đại, BHTGVN sẽ từ xa phát hiện sai sót của các ngân hàng và lập tức đưa ra cảnh báo, không để tình trạng này tích tụ quá lớn có thể dẫn đến đổ vỡ, từ đó chủ động bảo vệ người gửi tiền. Điều đặc biệt là công tác giám sát được thực hiện ngay tại Hà Nội và rất chủ động, không gây phiền hà cho các tổ chức tham gia BHTG. Ngoài ra, công tác quản lý tài chính, hậu cần, điều hành của Ban lãnh đạo cũng được thực hiện trên nền tảng CNTT.
PV: Vừa rồi ông có nói tới hệ thống giám sát từ xa giúp phát hiện sai sót, thậm chí có thể cảnh báo ngân hàng về những rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra. Xin ông cho biết, BHTGVN và bộ phận thanh tra giám sát của NHNN có sự liên hệ với nhau hay không trong việc phát hiện và cảnh báo những rủi ro đó?
Ông Nguyễn Mạnh Dũng: Trong quá trình kiểm tra, giám sát, BHTGVN và bộ phận thanh tra giám sát của NHNN có mối quan hệ hợp tác chặt chẽ. Thứ nhất, khi dự án này kết thúc, BHTGVN – NHNN và Trung tâm thông tin tín dụng có sự kết nối với nhau. Thông tin có thể sẽ được tiếp cận lẫn nhau từ các hợp phần. Khi nhận được thông tin từ kho dữ liệu của NHNN, hoặc trực tiếp từ các tổ chức tham gia BHTG, với nghiệp vụ giám sát từ xa của BHTGVN, nếu có rủi ro lập tức cảnh báo theo 2 hướng: Thứ nhất, cảnh báo trực tiếp tới các tổ chức sai phạm để họ điều chỉnh ngay, không để sai phạm quá lớn. Thứ hai, để tăng thêm hiệu lực, BHTGVN đồng thời gửi báo cáo tới NHNN, thông báo về những sai phạm ở một địa chỉ cụ thể nào đó.
Bên cạnh đó, nếu cần, BHTGVN có thể tham khảo dữ liệu về các tổ chức tín dụng từ CIC (từ thông tin về mối quan hệ với các doanh nghiệp tới chất lượng hoạt động của mỗi tổ chức đó). Tóm lại, trong hoạt động giám sát này, BHTGVN có mối quan hệ, phối hợp báo cáo với đơn vị quản lý là NHNN rất chặt chẽ.
PV: Nếu để tự đánh giá về năng lực CNTT của BHTGVN so với các mô hình BHTG khác trên thế giới, ông cho rằng, Việt Nam có thể đứng ở vị trí nào trong khu vực?
Ông Nguyễn Mạnh Dũng: Trong khu vực châu Á có 3 nước đi đầu về công nghệ thông tin trong lĩnh vực BHTG là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Trong thời gian tới, khi dự án FSMIMS kết thúc chúng ta sẽ có một hệ thống CNTT ngang hàng với các nước Philippin, Thái Lan, Indonesia. Nếu làm tốt, trong vòng 7-8 năm nữa, chúng ta có thể tiếp cận với nền tảng CNTT hiện đại trong nhóm những nước hàng đầu như tôi đã kể trên.
PV: Xin cảm ơn ông.