Hoạt động các QTDND khu vực NTB&TN
Hiện nay, trên địa bàn khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên (NTB&TN) có 77 Qũy tín dụng nhân dân cơ sở (QTDNDCS) hoạt động chủ yếu ở khu vực nông thôn, nơi các ngân hàng thương mại chưa có điều kiện vươn tới. Các QTDND trên địa bàn đã tích cực huy động vốn tại chỗ và các nguồn lực khác, phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và phát triển ngành nghề địa phương,góp phần xóa đói giảm nghèo.Tính đến cuối tháng 10/2014, tổng nguồn vốn hoạt động của các QTDND trên địa bàn đạt gần 2.939 tỷ đồng, tăng 18.742 triệu đồng, với tỷ lệ tăng 0,64% so với cùng kỳ tháng trước. Trong đó: Vốn vay đạt 173.759 triệu đồng, chiếm 5,91%/tổng nguốn vốn, tăng 13,599 triệu đồng với tỷ lệ tăng 8,49% so với cùng kỳ tháng trước; Vốn chủ sở hữu đạt 227.793 triệu đồng, chiếm 7,75%, tăng 2.883 triệu đồng với tỷ lệ tăng 1,28% so với cùng kỳ tháng trước, bình quân đạt hơn 2.958 triệu đồng/QTDND; Vốn khác đạt 62.796 triệu đồng chiếm 2,14%/tổng nguồn vốn; Vốn huy động hoàn toàn trên thị trường I, chủ yếu từ nguồn tiền gửi tiết kiệm bằng Việt Nam đồng, đạt 2.474.540 triệu đồng, chiếm 84,2%/tổng nguồn vốn, tăng 8.218 triệu đồng với tỷ lệ tăng 0,33% so với cùng kỳ tháng trước.
Trên địa bàn Nam Trung Bộ và Tây Nguyên hiện nay có 14 QTDND với tổng nguồn vốn từ 50 tỷ đồng trở lên; 39 QTDND có tổng nguồn vốn từ 20 tỷ đến dưới 50 tỷ; 14 QTDND có tổng nguồn vốn từ 10 tỷ đến 20 tỷ còn lại là 10 QTDND có tổng nguồn vốn dưới 10 tỷ.
Tổng thu nhập của 77 QTDND là 282.444 triệu đồng, đạt tỷ lệ 9,61%/Tổng TSC. Do hoạt động của QTDND chỉ đơn thuần là huy động để cho vay nên khoản thu nhập ngoài lãi chỉ là 3.775 triệu đồng, chiếm 1,34%/Tổng thu nhập.
Tổng chi phí của 77 QTDND là 256.289 triệu đồng, đạt tỷ lệ 8,72%/Tổng TSC. Trong đó, chi phí ngoài lãi là 96.362 triệu đồng, chiếm 37,60%/Tổng chi phí
Chênh lệch (thu nhập – chi phí) là 26.155 triệu đồng, tăng 2.757 triệu đồng với tỷ lệ tăng 11,78% so với cùng kỳ năm trước.
Vai trò của chính sách BHTG đối với hệ thống QTDND trên địa bàn
Từ khi thành lập đến nay, BHTGVN nói chung và Chi nhánh BHTGVN khu vực NTB&TN nói riêng đã thể hiện tốt vai trò của mình trong tiến trình đổi mới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD. Thông qua các hoạt động nghiệp vụ của BHTGVN như giám sát từ xa, kiểm tra tại chỗ giúp phát hiện sớm các vấn đề tiềm ẩn và đưa ra các biện pháp xử lý trước khi các vấn đề trở nên quá trầm trọng; Công tác đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung thêm khía cạnh đánh giá ngoài các thông tin định lượng được các tổ chức tham gia BHTG cung cấp.
Qua công tác giám sát từ xa, kiểm tra tại chỗ các QTDND trên địa bàn quản lý, Đoàn kiểm tra của Chi nhánh BHTGVN khu vực NTB&TN đã phát hiện những sai phạm nghiêm trọng trong hoạt động kinh doanh của QTDND An Thành thuộc tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 13/9/2007 và đã báo cáo nhanh thực trạng QTDND An Thành về BHTGVN và Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi để kịp thời chỉ đạo và phối hợp xử lý.
Bên cạnh đó, hoạt động thông tin tuyên truyền được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng để đưa chính sách BHTG đến với người dân. Chi nhánh BHTGVN khu vực NTB&TN luôn phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban ngành, tổ chức đoàn thể chính trị xã hội, cơ quan truyền thông kịp thời tuyên truyên sâu rộng về chính sách BHTG bằng nhiều hình thức khác nhau để người dân hiểu và yên tâm với khoản tiền gửi tiết kiệm của họ, tránh những biến cố lớn xảy ra như sự cố đổ xô rút tiền hàng loạt làm ảnh hưởng xấu tới hoạt động ngân hàng. Chính vì vậy, trong thời gian qua, trên khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên không xảy ra rủi ro, mất ổn định do rút tiền hàng loạt, mặc dù thực tế đã có những thông tin không tốt diễn ra trên địa bàn.
Trên thực tế, người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa từ lâu đã quen và sử dụng loại hình “tín dụng không chính thức” khi mà các ngân hàng thương mại chưa có điều kiện tiếp cận hoặc do hạn chế về mặt nhận thức của người dân cũng như chi phí giao dịch. Nguồn “tín dụng không chính thức” này xuất phát từ người cho vay chuyên nghiệp, các đại lý mua bán chịu vật tư nông, lâm, ngư nghiệp và chơi hụi… Điều này đồng nghĩa với việc nhiều yếu tố rủi ro luôn tiềm ẩn và có thể xảy ra bất cứ khi nào cho người tham gia.
Do đặc thù hoạt động kinh doanh của QTDND chủ yếu ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, các QTDND đã góp phần tạo công ăn việc làm ổn định cho người dân, từ đó bànthúc đẩy mạng lưới kinh tế nông thôn trên địa bàn NTB&TN phát triển. Điều này góp phần làm giảm sự phụ thuộc của người dân vào loại hình “tín dụng không chính thức” và tiến tới triệt tiêu loại hình “tín dụng đen” vẫn đang hoạt động trong dân cư.
Có thể khẳng định, vai trò to lớn của chính sách BHTG thể hiện ở việc nâng cao được lòng tin và hiểu biết của người dân vào hệ thống QTDND, qua đó tạo mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa người dân với QTDND trong việc vượt qua mọi khó khăn, cùng nhau phát triển.