Từ những đợt điều chỉnh lãi suất…
Việc lãi suất giảm liên tục trong thời gian vừa qua nằm trong lộ trình giảm lãi suất năm 2012 và tiếp tục được thực hiện trong năm 2013, đã được Thống đốc NHNN định hướng điều hành ngay từ đầu năm 2012. Từ năm 2012 đến cuối tháng 3/2013, NHNN đã 6 lần điều chỉnh lãi suất huy động và cho vayvà đều là hạ trần lãi suất. Lần đầu tiên được thực hiện vào ngày 13/03/2012 (từ mức 14%/năm về 13%/năm) theo yêu cầu giảm lãi suất huy động của Thủ tướng chính phủ. Tiếp đó, đến ngày 11/04, lãi suất huy động được giảm thêm 1%, về mức 12%/năm. Ngày 28/05/2012, NHNN quyết định đưa trần lãi suất huy động về còn 11%/năm, lãi suất cho vay về 14%/năm, đồng thời hạ một loạt lãi suất điều hành khác. Từ ngày 11/06/2012, trần lãi suất huy động ngắn hạn VND đã giảm từ mức 11%/năm xuống còn 9%/năm. Bên cạnh đó, theo Thông tư 19/2012/TT-NHNN được ban hành ngày 8/6/2012, NHNN đã cho phép các ngân hàng thương mại (NHTM) tự quyết định lãi suất huy động kỳ hạn dài (từ 12 tháng trở lên). Từ 24/12/2012, NHNN đưa trần lãi suất huy động ngắn hạn giảm xuống còn 8%/năm.
Tiếp đó, với việc CPI tháng 3/2013 tiếp tục đà giảm, kết hợp với thực trạng là một lượng vốn lớn đang bị tắc nghẽn trong hệ thống ngân hàng, ngày 26/03/2013, NHNN thông báo tiếp tục giảm trần lãi suất huy động ngắn hạn xuống 7,5%/năm; đồng thời điều chỉnh giảm 1% các lãi suất chủ chốt với mong muốn khơi thông nguồn tín dụng tắc nghẽn, giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Phản ứng với quy định của NHNN, mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường cũng có xu hướng giảm liên tục. Theo số liệu thu thập của các NHTM, lãi suất trung bình cho kỳ hạn ngắn giảm từ mức 13,93%/năm thời điểm tháng 2/2012 xuống 9,89%/năm vào tháng 6/2012 và xuống còn 7,49%/năm tại thời điểm tháng 3/2013.
Tuy nhiên, mục tiêu chính của động thái này không phải nhằm hạ lãi suất huy động mà là kéo lãi suất cho vay xuống, đồng thời bơm tiền ra hỗ trợ nền kinh tế.
Thực tế, lãi suất cho vay VNĐ trong quý 1/2012 đã được điều chỉnh giảm từ 1-3%/năm đối với một số lĩnh vực như nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, phổ biến ở mức 14,5 đến 16%/năm; thấp nhất là 13,5%/năm, áp dụng với khách hàng doanh nghiệp cam kết bán ngoại tệ cho ngân hàng. Đến quý 3/2012, lãi suất cho vay các lĩnh vực khác phổ biến đã được đưa về mức 15%/năm, có thể hạ xuống 9%/năm đối với doanh nghiệp hạng A. Tuy nhiên, số lượng các doanh nghiệp thực sự tiếp cận được nguồn vốn với lãi suất ưu đãi là không nhiều. Do vốn rẻ chỉ dành cho những lĩnh vực ưu tiên, vì thế không ít khách hàng nằm ngoài đối tượng này vẫn phải vay lãi suất cao. Hoặc doanh nghiệp có nợ xấu lớn, nợ cũ chưa trả nên không thể vay được nợ mới. Dẫn đến sức hấp thụ vốn của nền kinh tế rất yếu, tăng trưởng tín dụng năm 2012 ở mức thấp kỷ lục, chỉ đạt khoảng 7%. Con số này đến cuối tháng 3/2013, vẫn không được cải thiện, thậm chí xấu đi rất nhiều, ở mức 0,1%. Số lượng doanh nghiệp phá sản, giải thể tiếp tục tăng mạnh trong năm 2012. Trong tổng số hơn 670.000 doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trên cả nước thì có đến gần 202.000 doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động trong năm 2012, tăng 8,4% so với năm 2011 và bằng 50% tổng số doanh nghiệp rời thị trường trong vòng 20 năm qua.
Đứng trên phương diện phân tích kinh tế, có thể nhận thấy những nỗ lực của NHNN để hỗ trợ nền kinh tế sẽ mang lại hiệu quả vể mặt tâm lý, còn thực tế thì chúng ta cần phải có thêm thời gian để đưa ra các nhận định chính xác hơn.
Diễn biến lãi suất trên thị trường thời gian qua đã có tác động đến rất nhiều thành phần kinh tế trong xã hội như doanh nghiệp vay vốn, ngân hàng và đặc biệt ảnh hưởng đến tâm lý của người gửi tiền..
…Đến diễn biến tâm lý người gửi tiền
Nhận định thứ nhất, được cho là quan trọng nhất, chính là việc lãi suất hạ liên tục gây ra những tác động nhất định đến tâm lý người gửi tiền nhưng không đủ mạnh để đưa dòng tiền ra khỏi ngân hàng.
Theo các khảo sát được thực hiện tại một số địa phương, trong ngày đầu tiên áp dụng mức lãi suất mới, các ngân hàng thay vì niêm yết mức lãi suất 7,5%; đã khôn khéo niêm yết mức lãi suất cao nhất tới 9,5-11% - vốn chỉ được áp dụng cho các kỳ hạn dài từ 12 tháng trở lên để tránh gây tâm lý rút tiền cho người dân. Mặc dù, người gửi tiền nhanh chóng phát hiện ra các mức lãi suất cao nhất này chỉ được áp dụng cho các kỳ hạn dài như 24 tháng và 36 tháng, nhưng sau khi cân nhắc, cuối cùng họ vẫn quyết định giữ tiền của mình lại ngân hàng.
Có thể giải thích sự việc trên bằng một số nguyên nhân. Thứ nhất, người dân đã có một thời gian tương đối dài chuẩn bị trước tâm lý đối mặt với việc hạ lãi suất của ngân hàng. Như chúng ta biết, diễn biến lãi suất thời gian qua đi theo xu hướng giảm liên tục, cùng với các tín hiệu kinh tế những tháng đầu năm 2013 như lạm phát ở mức thấp đã được một số chuyên gia kinh tế phân tích và dự báo từ rất sớm, do đó người dân đã nắm bắt được thông tin và có tâm lý chuẩn bị. Dẫn đến thực tế là người gửi tiền đón nhận thông tin hạ lãi suất một cách chủ động, tích cực. Điều này cùng với kỳ vọng về lạm phát sẽ giữ mức ổn định, xoay quanh mức năm 2012 đã khiến lãi suất hạ ảnh hưởng không lớn đến nguồn vốn chảy vào ngân hàng.
Nguyên nhân thứ hai cần nhắc tới là, tại thời điểm hiện tại, các thị trường đầu tư khác không hấp dẫn. Các thị trường đầu tư được người dân ưa chuộng trong giai đoạn trước như: bất động sản, chứng khoán, vàng đang ở giai đoạn khó khăn và tiềm ẩn rất nhiều rủi ro nên đa phần người gửi tiền muốn an tâm về nguồn vốn và gia tăng lợi nhuận một cách an toàn, vẫn chọn gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng là một trong những kênh hiệu quả nhất. Thứ ba, việc gửi tiền vào ngân hàng của người dân phụ thuộc rất lớn vào kỳ vọng của họ về lạm phát. Theo thông tin từ Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, cùng với các chuyên gia kinh tế dự đoán thì lạm phát năm 2013 sẽ kết thúc ở mức thấp. Do đó người dân có thể yên tâm khi gửi tiền vào ngân hàng và hưởng lãi suất. Nếu đem so sánh với những năm trước, khi mà lạm phát rất cao, lãi suất danh nghĩa dù có cao vẫn thấp hơn mức lạm phát thì tương quan lãi suất và lạm phát này cũng tạo ra sự sự hấp dẫn không nhỏ
Tiếp theo, có thể nhận định rằng tuy giữ lại tiền trong ngân hàng, nhưng không phải người gửi tiền đều có lựa chọn giống nhau. Có 2 phương án được lựa chọn nhiều nhất. Thứ nhất, người gửi tiền giữ nguyên khoản tiền tiết kiệm ở kỳ hạn ngắn. Phản ánh của một số NHTM tại thành phố Hồ Chí Minh, dù xu hướng giảm lãi suất tiền gửi ngày càng rõ ràng, các khoản tiền gửi của khách hàng là cá nhân kỳ hạn dưới 12 tháng vẫn tăng đều theo từng tuần. Thực tế, tâm lý của khách hàng vẫn chuộng kỳ hạn ngắn 1 - 3 tháng, để linh hoạt nguồn vốn. Lý do khác là họ cảm thấy không yên tâm khi gửi dài hạn, do lãi suất thời gian qua biến động quá thất thường. Do đó, lãi suất tiết kiệm dưới 12 tháng giảm thêm 0,5% vẫn làm nguồn vốn ngắn hạn thay đổi không nhiều. Phương án thứ hai, chuyển các khoản tiền gửi sang kỳ hạn dài. Mặc dù những ưu điểm không thể phủ nhận của kỳ hạn ngắn, nhưng để tối đa hóa lợi nhuận từ những đồng tiền nhàn rỗi cùng với việc dự đoán xu hướng lãi suất trong tương lai sẽ thấp hơn, nhiều người gửi tiền đã chuyển sang gửi ngân hàng với kỳ hạn dài (từ 12 tháng trở lên) để hưởng lãi suất cao. Khảo sát một số ngân hàng tại Hà Nội, do chủ động nắm bắt khả năng hạ lãi suất từ sớm, trong những ngày gần đây, một lượng lớn khách hàng đến gửi tiền đã chủ động lựa chọn kỳ hạn dài hơn để hưởng mức lãi suất cao hơn. Bên cạnh đó, việc chuyển sang gửi tiền dài hạn của người dân cũng mang lại lợi ích không nhỏ cho ngân hàng bởi khi đó ngân hàng sẽ có nguồn vốn ổn định hơn, có thể yên tâm hơn về tình hình thanh khoản, và là tiền đề để đưa ra các phương án cho vay dài hạn hơn nhằm hỗ trợ hiệu quả hơn cho các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cũng có một bộ phận người gửi tiền rút tiền khỏi hệ thống ngân hàng, đầu tư vào các kênh khác như: mua vàng, mua USD, đầu tư thị trường chứng khoán hay cho vay ngoài với lãi suất cao
Theo khảo sát, một bộ phận nhỏ người gửi tiền khi nghe tin hạ lãi suất rất băn khoăn để tìm kênh đầu tư mới sinh lời tốt hơn. Họ cho rằng, với khoản tiền của họ, nếu gửi tiết kiệm ngân hàng thì một năm sau sẽ không bằng được giá trị như bây giờ. Vì thế, họ dự định rút một phần ra đầu tư các lĩnh vực khác như mua vàng, USD hoặc cho người quen vay với lãi suất cao hơn.
Tuy nhiên, giải pháp này bị rất nhiều chuyên gia tài chính ngân hàng không đồng tình với lý do là khá rủi ro, đặc biệt trong thời điểm hiện tại.
Chưa có số liệu thống kê về dòng tiền chảy khỏi ngân hàng để phục vụ cho các khoản đầu tư khác. Nhưng với tốc độ tăng trưởng tín dụng như hiện nay, có thể sơ bộ cho rằng lượng tiền rút khỏi ngân hàng, dành cho các kênh đầu tư khác là không nhiều so với lượng tiền tiếp tục ở lại ngân hàng
Nhận định cuối cùng, người gửi tiền có nhu cầu mua nhà để ở có thể cân nhắc sử dụng tiền mua nhà trong giai đoạn này càng sớm càng tốt. Theo một số chuyên gia, việc dành tiền nhàn rỗi mua nhà lúc này rất hợp lý ngay cả khi không có nhu cầu để ở. Thị trường bất động sản đang trầm lắng, giá nhà đang thấp, có rất nhiều dự án nhà ở giảm giá. Bên cạnh đó, trong trường hợp mua nhà mà không ở người dân có thể cho thuê. Tiền cho thuê nhà có thể không bằng tiền lãi có được nếu sử dụng số tiền đó gửi ngân hàng nhưng cũng có thể bù đắp được một phần nào đó; mặt khác, nếu xét trong dài hạn, khi thị trường bất động hồi phục, nhà đầu tư có cơ hội thu được lợi nhuận cao hơn lãi suất gửi tiết kiệm kỳ hạn ngắn. Hơn nữa, xét ở phạm vi nền kinh tế, việc mua nhà này sẽ gián tiếp góp phần kích cầu cho thị trường bất động sản.
Tuy nhiên, trên thực tế, với tình hình thị trường bất động sản như hiện tại, cùng với nền kinh tế chưa có tín hiệu khả quan, dự đoán sẽ không có nhiều người rút tiền để mua nhà.
Tóm lại, phản ứng của người gửi tiền đối với việc lãi suất huy động giảm xuống rất khác nhau. Họ có thể giữ tiền lại trong ngân hàng, cũng có thể rút tiền để thực hiện các hoạt động đầu tư khác. Tuy nhiên, với tình hình vĩ mô không có biến động lớn, có thể khẳng định, tâm lý của người gửi tiền trong thời gian tới sẽ không thay đổi nhiều so với thời điểm hiện tại, và NHTM sẽ chưa phải đối mặt với khó khăn về suy giảm nguồn vốn huy động cũng như tình hình thanh khoản thiếu ổn định. Điều này góp phần khẳng định tính đúng đắn của chủ trương hạ lãi suất mà NHNN đã đưa ra.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo giám sát hệ thống ngân hàng của BHTG
2. Thông tin lãi suất ngân hàng từ laisuat.vn
3. Khảo sát thông tin từ một số ngân hàng trên địa bàn TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh