Hướng dẫn hiện nay về giảm thiểu rủi ro đạo đức được đưa ra trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của BCBS-IADI. Nguyên tắc 2 cho biết, rủi ro đạo đức sẽ được giảm thiểu bằng cách đảm bảo rằng hệ thống BHTGcó các đặc điểm thiết kế phù hợp và thông qua các yếu tố khác của mạng an toàn hệ thống tài chính. Đảm bảo một hệ thống BHTG có được những đặc điểm thiết kế phù hợp chẳng hạn như: Quy định hạn mức bảo hiểm, loại trừ những đối tượng người gửi tiền nhất định khỏi danh mục được bảo hiểm, áp dụng các hệ thống tính phí phân biệt hoặc theo mức độ rủi ro để giảm thiểu rủi ro đạo đức.
Bên cạnh việc hệ thống BHTG được thiết kế phù hợp, rủi ro đạo đức có thể được giảm thiểu thông quacác yếu tố khác của mạng an toàn tài chính bằng cách xây dựng và tăng cường các chính sách khuyến khích phù hợp thông qua quản trị doanh nghiệp vàquản lý rủi ro tốt đối với từng ngân hàng, nguyên tắc thị trường hiệu quả và khung pháp lý, giám sát và điều tiết an toàn, vững mạnh.
Trong thời kỳ bình thường, các nhà hoạch định chính sách cố gắng cân bằng giữa mục tiêu duy trì sự ổn định tài chính với mục tiêu giảm thiểu rủi ro đạo đức. Tuy nhiên, trong thời kỳ khủng hoảng, việc duy trì hoặc khôi phục sự ổn định tài chính được ưu tiên và các chính sách bảo vệ những người gửi tiền và các chủ nợ của các định chế tài chính có thể được tiếp tục bất chấp ảnh hưởng về rủi ro đạo đức. Như vậy, các nhà hoạch định chính sách nên xem xét và đưa ra công cụ hiệu quả đối với giảm thiểu rủi ro đạo đức .
Trong khủng hoảng tài chính, hầu hết những người gửi tiền không có thông tin đầy đủ và/hoặc thiếu các chế tài xử phạt có hiệu quả các tổ chức tham gia BHTG. Hơn nữa, trong giai đoạn bất ổn định, rủi ro lớn hơn có thể xảy ra khi những người gửi tiền đổ xô rút tiền tại cả các ngân hàng yếu kém cũng như các ngân hàng hoạt động tốt. Vì vậy, các nhà làm chính sách nên chú trọng nhiều hơn vào kỷ luật thị trường từ các cổ đông và các chủ nợ không được bảo hiểm, bao gồm những người gửi tiền không được bảo hiểm có quy mô lớn. Việc chia sẻ thông tin, truyền thông hiệu quả và lập kế hoạch phối hợp giữa các bên tham gia trong mạng an toàn có liên quan góp phần giảm thiểu rủi ro đạo đức và khôi phục sự cân bằng giữa ổn định tài chính và rủi ro đạo đức.
Một số biện pháp giúp giảm thiểu rủi ro đạo đức trong hoạt động ngân hàng.
Cần chú trọng đến kỷ luật thị trường của những người gửi tiền có quy mô lớn để giảm thiểu rủi ro đạo đức hơn những người gửi tiền nhỏ lẻ.?
Kỷ luật của người gửi tiền không phải là công cụ hiệu quả hoàn toàn đối với việc giảm thiểu rủi ro đạo đức vì phần lớn những người gửi tiền nhỏ lẻ hầu như không thể hoặc không có khả năng giám sát kỷ luật các tổ chức tham gia BHTG. Điều này có liên quan đến thiết kế của các hệ thống BHTG và mạng an toàn tài chính, bao gồm bảo hiểm bảo hiểm trong thời kỳ bình thường và xử lý đổ vỡ.
Những nhà lập pháp đã tìm cách để hướng dẫn kỷ luật thị trường thông qua tổ chức BHTG đưa ra những đặc tính tác động đến thái độ của người gửi tiền – bằng cách giới hạn phạm vi BHTG. Điều này bao gồm việc giới hạn về hạn mức BHTG, loại chứng từ và đối tượng người gửi tiền. Nhà lập pháp cũng đặt ra luật lệ áp dụng hạn mức BHTG..
Để tối thiểu hóa mức độ tổn thất, những người gửi tiền không được bảo hiểm có thể chọn gửi tiền vào những tổ chức tham gia BHTG hiện đang hoạt động an toàn và lành mạnh hoặc không có nguy cơ phá sản.
Sự chọn lựa của một nước về quy định hạn mức BHTG thường phản ánh mục tiêu chính sách căn bản. Trong một hệ thống BHTG giới hạn hạn mức rõ ràng, một hạn mức có phạm vi thấp và hẹp, ví dụ, nhất quán với mục tiêu chính sách căn bản về bảo vệ các hộ gia đình một cách đầy đủ với những khoản tiết kiệm nhỏ, và những người gửi tiền khác có thể phải chịu kỷ luật. Một hạn mức có phạm vi cao và rộng cân xứng hơn với giới hạn rủi ro mà ngân hàng phải chịu, khuyến khích các ngân hàng gia nhập mới vào và tạo thuận lợi cho sự phát triển ngành ngân hàng. Tuy nhiên, sự lựa chọn quy định hạn mức thường cân bằng với nhu cầu có hạn mức cao để đóng góp cho sự ổn định tài chính bằng cách ngăn người gửi tiền với mục tiêu giới hạn rủi ro đạo đức.
. Đặc biệt, kinh nghiệm gần đây cho thấy, tầm quan trọng của việc duy trì hạn mức hiệu quả để bảo vệ đa số người gửi tiền, trong khi để lại một phần trăm giá trị tiền gửi hợp lý. Đưa ra những yếu tố có dụng ý truyền dẫn kỷ luật đến những người gửi tiền nhỏ, như là sự đồng bảo hiểm và mức bảo hiểm thấp, cho thấy hiệu quả thấp hơn đối với việc giảm rủi ro đạo đức, đặc biệt là trong giai đoạn khó khăn hoặc khủng hoảng tài chính. Trong giai đoạn ổn định, khi sự phá sản có tính khác thường và không theo hệ thống, những khuyết điểm của kỷ luật người gửi tiền có thể không rõ ràng.
Kỷ luật của người gửi tiền hiệu quả chỉ có thể bị tác động bởi rất ít người gửi tiền quy mô lớn, và kỷ luật đó có thể không đủ để kiểm soát một cách đầy đủ rủi ro đạo đức. Tuy nhiên, nó có thể được khuyến khích bằng cách đảm bảo rằng hạn mức bảo hiểm được đặt ra để bảo vệ đa số người gửi tiền cá nhân trong khi trình bày một giá trị đầy đủ của tiền gửi đối với kỷ luật thị trường. Vì vậy, các nhà lập pháp nên căn cứ vào nguồn lực bổ sung của kỷ luật thị trường để giảm rủi ro đạo đức: cổ đông và chủ nợ không đảm bảo.
Kỷ luật thị trường, đặc biệt đối với các định chế tài chính lớn, chủ yếu sẽ đến từ những người gửi tiền có quy mô lớn, các cổ đông và những người nắm giữ nợ thứ cấp không được bảo hiểm..
Kỷ luật thị trường xảy ra khi, được cung cấp sự khích lệ thích hợp, phản ứng của các bên liên đới đối với áp lực thị trường để giảm bớt việc chấp nhận rủi ro quá mức. Khi tổ chức tham gia BHTG gặp khó khăn và đổ vỡ, những ảnh hưởng từ những người gửi tiền không được bảo hiểm, những người cho vay không có đảm bảo khác và những cổ đông để giới hạn áp lực tổn thất của họ có thể tạo ra những dấu hiệu thị trường về rủi ro của định chế. Ví dụ, những người gửi tiền không được bảo hiểm có thể chuyển tiền từ những tổ chức tài chính không lành mạnh sang những tổ chức tài chính hoạt động tốt, và những người cho vay không đảm bảo và những cổ đông có thể trông chờ để bán những khoản lợi tức ở những định chế gặp khó khăn. Những thay đổi về lãi suất được cung cấp bởi những định chế gặp rủi ro nhiều hơn và những thay đổi về giá của các chứng khoán được giao dịch công khai cung cấp dấu hiệu cho thị trường về rủi ro nhận biết được của ngân hàng.
Cho dù những dấu hiệu thị trường cung cấp một đánh giá chính xác về rủi ro hay không sẽ phụ thuộc vào phần lớn các bên liên quan có được thông tin chính xác về điều kiện và hoạt động của tổ chức tham gia BHTG. Nói cách khác, điều này yêu cầu kế toán và chế độ công khai đảm bảo thông tin chính xác và nhất quán về rủi ro. Các bên liên quan cũng phải có sự tinh tế về tài chính để phân biệt giữa các tổ chức tài chính mạnh và yếu.
Tính hiệu quả của kỷ luật thị trường để làm giảm suy thoái đạo đức sẽ phụ thuộc vào những nhân tố như: chi phí cân đối để lấy được thông tin và những kỷ năng phân tích cần thiết để giám sát rủi ro ngân hàng. Khả năng của người gửi tiền và những người tham gia thị trường khác để giám sát rủi ro ngân hàng trên cơ sở thông tin công khai có sẵn, cung cấp hạn mục đầu tư không rõ ràng; và sự đe dọa đối với sự ổn định tài chính khi những người gửi tiền có khả năng thiếu thông tin gây rủi ro lớn hơn. Những cơ quan giám sát và tổ chức BHTG cũng phải nhanh chóng xử lý tổ chức tham gia BHTG đổ vỡ và giới hạn bảo hiểm tiền gửi đối với những người gửi tiền tại tất cả cáctổ chức tài chính đổ vỡ.
Chỉ kỷ luật thị trường thì không đủ giảm thiểu rủi ro đạo đức; tốt nhất nên được sử dụng phối hợp với kỷ luật điều tiết từ sự giám sát thận trọng, các đặc điểm thiết kế BHTG hiệu quả và biện pháp xử lý tổ chức tài chính đổ vỡ hiệu quả.
Các đặc điểm thiết kế hệ thống BHTG có thể là công cụ hữu hiệu giúp giảm thiểu rủi ro đạo đức. Hệ thống BHTG nên có các quy tắc bảo hiểm cũng nhưgiới hạn phạm vi và mức bảo hiểm và có thể, trong một vài trường hợp, truyền dẫn kỷ luật của người gửi tiền. Kỷ luật điều tiết cũng có thể được áp dụng bởi các đặc điểm thiết kế BHTGảnh hưởng trực tiếp đến hành vi chấp nhận rủi ro của tổ chức nhận tiền gửi tham gia bảo hiểm, chẳng hạn như phí bảo hiểm khác biệt hoặc dựa trên rủi ro. Tùy thuộc vào chức năng, hệ thống BHTG có thể có các quyền hạn khác hoặc các thẩm quyền giảm thiểu rủi ro đạo đức. Trong đó bao gồm khả năng:Chức năng kiểm soát của hệ thống BHTG; Phát hành các lệnh dừng và chấm dứt khi thích hợp; Giới hạn phạm vi BHTG; Sử dụng các công cụ can thiệp sớm (thu thập thông tin, yêu cầu hoặc thực hiện kiểm tra tổ chức tham gia BHTG bao gồm giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ); Theo đuổi các biện pháp giải quyết dân sự và; Thực hiện xử lý với chi phí thấp nhấtLưu ý đến các hình phạt đối với các tổ chức thành viên chào giá lãi suất tiền gửi cao để thu hút tiền gửi.
Các bên tham gia mạng an toàn tài chính có liên quan nên phát triển và thực thi khuôn khổ phối hợp hiệu quả kết hợp với sự can thiệp sớm và xử lý phá sản.
Các bên tham gia mạng an toàn tài chính có liên quan (bao gồm cơ quan nước ngoài trong trường hợp xử lý xuyên biên giới) nên làm việc theo phương thức phối hợp và hợp nhất để giải quyết nhanh chóng các định chế bị phá sản;Các tổ chức BHTG và các bên tham gia mạng an toàn khác nên tiếp cận và chia sẻ thông tin liên quan kịp thời; Các công cụ phát hiện và can thiệp sớm nên được sử dụng; Các tổ chức tài chính đổ vỡ phải được tổ chức BHTG xử lý với chi phí thấp nhất và người đóng thuế không phải chịu bất kỳ chi phí đối với các tổn thất; Các cổ đông và các chủ nợ không được bảo hiểm, bao gồm những người gửi tiền không được bảo hiểm có quy mô lớn nên có trách nhiệm đối với các tổn thất của tổ chức tài chínhđổ vỡ và chịu chi phí xử lý phá sản theo thứ tự chủ nợ do luật pháp quy định.
Khi thực hiện đồng thời nhiều biện pháp thúc đẩy kỷ luật và giảm thiểu rủi ro đạo đức, tổ chức BHTG nâng cao niềm tin và góp phần vào sự ổn định tài chính. Như vậy,, các tổ chức BHTG và các thành viên khác trong mạng an toàn tài chính có thể giảm thiểu rủi ro đạo đức bằng cách xây dựng và tăng cường hệ thống các chính sách khuyến khíchphù hợp thông qua quản trị doanh nghiệp và quản lý rủi ro tốt đối với từng ngân hàng, nguyện tắcthị trường hiệu quả và khung pháp lý, giám sát và điều tiết an toàn, vững mạnh..