Dự thảo Luật Các TCTD sửa đổi sau khi tiếp thu, chỉnh lý gồm 15 chương, 210 điều. Đây là dự án luật có nhiều nội dung chuyên sâu, có tác động trực tiếp đến chính sách tài chính, tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô; việc tiếp thu, hoàn thiện dự thảo luật được thực hiện kỹ lưỡng, thận trọng, phù hợp với đường lối, chính sách và Hiến pháp 2013. Đến nay, dự thảo Luật đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu đề ra, bảo đảm sự an toàn, lành mạnh, minh bạch, ổn định và bền vững của hệ thống ngân hàng và các TCTD, phát triển theo đúng nguyên tắc thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thông lệ, chuẩn mực quốc tế phổ biến, nâng cao khả năng cạnh tranh, tiếp tục phát huy vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế.
Tăng cường bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD
Theo đó, Luật Các TCTD (sửa đổi) vừa được thông qua quy định về việc thành lập, tổ chức, hoạt động, can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể, phá sản tổ chức tín dụng; việc thành lập, tổ chức, hoạt động, can thiệp sớm, giải thể, chấm dứt hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài; việc thành lập, hoạt động của văn phòng đại diện tại Việt Nam của TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng; việc xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ có chức năng mua, bán, xử lý nợ.
Cụ thể, về một số quy định liên quan đến xử lý sở hữu chéo, thao túng, chi phối TCTD (tại khoản 24 Điều 4, Điều 63, Điều 136), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, có ý kiến đề nghị quy định người có liên quan phù hợp với loại hình quỹ tín dụng nhân dân (QTDND). Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã quy định phạm vi người có liên quan đối với QTDND hẹp hơn so với các loại hình TCTD khác và thể hiện tại điểm h khoản 24 Điều 4 của dự thảo Luật.
Có ý kiến cho rằng biện pháp giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần, giảm giới hạn cấp tín dụng chưa xử lý được vấn đề sở hữu chéo, thao túng, chi phối như thời gian vừa qua, quan trọng là việc giám sát thực thi. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) thống nhất với ý kiến của đại biểu Quốc hội, bên cạnh quy định việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần, giới hạn cấp tín dụng và một số quy định trong tổ chức, quản trị, điều hành, dự thảo Luật đã bổ sung quy định về cung cấp, công bố công khai thông tin (Điều 49), trong đó, cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ trở lên của TCTD phải thực hiện cung cấp thông tin, TCTD phải công bố công khai thông tin của các cổ đông này để bảo đảm minh bạch.
UBTVQH đề nghị Chính phủ chỉ đạo NHNN nâng cao hiệu quả phối hợp với bộ, ngành có liên quan, đồng thời có giải pháp tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, bảo đảm hạn chế cao nhất tình trạng sở hữu chéo, thao túng, chi phối TCTD.
Về hoạt động đại lý bảo hiểm của TCTD (tại Điều 5, Điều 113), có ý kiến đề nghị nghiên cứu luật hóa để có chế tài ngăn chặn, xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm của nhân viên TCTD như việc tư vấn không đầy đủ khiến một số khách hàng nhầm lẫn giữa sản phẩm bảo hiểm và sản phẩm ngân hàng hoặc yêu cầu mua bảo hiểm gắn với các khoản vay khi có nhu cầu vay vốn của ngân hàng. Có ý kiến đề nghị không nên cho phép ngân hàng thương mại liên kết bán bảo hiểm; cấm bán chéo bảo hiểm nhân thọ. Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, UBTVQH đã chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng bổ sung quy định về hành vi bị nghiêm cấm như sau: Cấm TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, người quản lý, người điều hành, nhân viên của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài gắn việc bán sản phẩm bảo hiểm không bắt buộc với việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng dưới mọi hình thức. Đồng thời, giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định phạm vi hoạt động đại lý bảo hiểm của TCTD để phù hợp với tính chất và hoạt động của lĩnh vực ngân hàng.
Về biện pháp hỗ trợ TCTD được can thiệp sớm, có ý kiến đề nghị cân nhắc kỹ lưỡng điểm a và b khoản 2 Điều 159 của dự thảo Luật quy định TCTD phải thuyết minh rõ số dự phòng rủi ro chưa được trích lập, số lãi phải thu phải thoái chưa phân bổ trong báo cáo tài chính, bao gồm cả báo cáo tài chính niêm yết công khai tại dự thảo Luật. UBTVQH cho biết, tại Điều 154 của dự thảo Luật đã quy định việc công khai báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp TCTD đang được kiểm soát đặc biệt. Do vậy, trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, UBTVQH tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội theo hướng quy định về dự phòng rủi ro chưa được trích lập, số lãi phải thu phải thoái chưa phân bổ như tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 159 của dự thảo Luật. UBTVQH đề nghị Chính phủ trong quá trình triển khai thực hiện Luật chỉ đạo NHNN chịu trách nhiệm và có giải pháp phù hợp để nắm rõ thực trạng tài chính của các TCTD này khi được áp dụng cơ chế hỗ trợ, bảo đảm an toàn hệ thống TCTD.
Về chấm dứt can thiệp sớm, có ý kiến cho rằng, tại Điều 161 cần quy định thống nhất việc NHNN có văn bản áp dụng và chấm dứt can thiệp sớm tại dự thảo Luật tương tự như quy định tại khoản 3 Điều 130a Luật Các TCTD hiện hành. Có ý kiến đề nghị giữ quy định về can thiệp sớm như dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 hoặc bỏ quy định NHNN phải có văn bản quyết định chấm dứt can thiệp sớm. UBTVQH thống nhất với ý kiến của đại biểu Quốc hội về việc NHNN có trách nhiệm trong việc ra văn bản áp dụng thực hiện cũng như chấm dứt thực hiện can thiệp sớm tương tự như quy định tại khoản 6 Điều 130a Luật Các TCTD hiện hành. Để thống nhất với quy định tại khoản 2 Điều 156 về việc NHNN có văn bản yêu cầu khi TCTD thuộc trường hợp được can thiệp sớm, UBTVQH đã chỉnh lý điểm a khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 161 theo hướng NHNN có văn bản chấm dứt việc thực hiện văn bản yêu cầu quy định khoản 2 Điều 156 của Luật này khi TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khắc phục được tình trạng dẫn đến can thiệp sớm. NHNN có trách nhiệm theo dõi, giám sát và bảo đảm thực trạng của TCTD đã khắc phục được tình trạng dẫn đến can thiệp sớm.
Về cho vay đặc biệt QTDND (tại Điều 193), có ý kiến đề nghị bỏ quy định NHNN quyết định việc cho vay đặc biệt của ngân hàng hợp tác xã với lãi suất 0%/năm, không có tài sản bảo đảm đối với QTDND tại dự thảo Luật. UBTVQH thống nhất với ý kiến của đại biểu Quốc hội về việc ngân hàng hợp tác xã có quyền quyết định khoản vay đặc biệt của ngân hàng hợp tác xã đối với QTDND. Tại khoản 3 Điều 192 của dự thảo Luật đã quy định ngân hàng hợp tác xã chỉ cho vay đặc biệt đối với QTDND theo quy định của Thống đốc NHNN (hiện đang thực hiện theo quy định tại Thông tư số 08/2021/TT-NHNN của NHNN về cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt đã được sửa đổi, bổ sung). Do vậy, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, UBTVQH chỉnh lý khoản 2 Điều 193 theo hướng quy định ngân hàng hợp tác xã quyết định cho vay đặc biệt đối với QTDND.
TCTD được vay đặc biệt từ NHNN, tổ chức bảo hiểm tiền gửi và TCTD khác khi bị rút tiền hàng loạt
Về xử lý trường hợp TCTD bị rút tiền hàng loạt, vay, cho vay đặc biệt (Chương XI), UBTVQH đã chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng:
“Ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô được vay đặc biệt từ NHNN; vay đặc biệt từ tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi; vay đặc biệt từ TCTD khác” (khoản 3 Điều 191) để phù hợp với các TCTD có nhận tiền gửi cá nhân bị rút tiền hàng loạt.
“Tổ chức tín dụng được vay đặc biệt từ Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng khác trong trường hợp sau đây: a) Để chi trả tiền gửi cho người gửi tiền theo quy định tại Điều 191 của Luật này; b) Để thực hiện phương án phục hồi, phương án chuyển giao bắt buộc” (khoản 1 Điều 192) bảo đảm phù hợp với quy định tại Điều 171 (cho phép công ty tài chính được vay đặc biệt để thực hiện phương án phục hồi, Điều 182 (cho phép ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc vay đặc biệt để thực hiện phương án chuyển giao bắt buộc) và Điều 191 của dự thảo Luật (cho phép một số loại hình tổ chức tín dụng được vay đặc biệt trong trường hợp bị rút tiền hàng loạt).
Khoản 2 và khoản 3 Điều 192 được chỉnh lý như sau: “2. Ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô được vay đặc biệt từ tổ chức bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi. 3. Ngân hàng hợp tác xã chỉ cho vay đặc biệt đối với quỹ tín dụng nhân dân theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước”.
Về hiệu lực thi hành (Điều 209), Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024, trừ quy định tại khoản 2 Điều này. Khoản 3 Điều 200 và khoản 15 Điều 210 của Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2025”.
NA