Tín dụng tăng trưởng hiệu quả, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
Tín dụng những tháng đầu năm 2022 tăng nhanh so với cùng kỳ nhiều năm trước, phù hợp với diễn biến phục hồi của nền kinh tế và tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. Theo NHNN, đến ngày 31/8/2022, tín dụng toàn nền kinh tế đạt trên 11,48 triệu tỷ đồng, tăng 9,95% - là mức tăng cao so với cùng kỳ nhiều năm trở lại đây.
Áp lực lên vốn tín dụng ngân hàng tăng cao cho quá trình phục hồi kinh tế, trong khi thị trường vốn chưa phát triển tương xứng với yêu cầu của nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh áp lực rủi ro lạm phát gia tăng. Xu hướng tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam tăng nhanh trong giai đoạn gần đây, đặc biệt từ năm 2020 (2021: 124% GDP), tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống tài chính. Các tổ chức quốc tế (IMF, WB), tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia đều cảnh báo về tỷ lệ này của Việt Nam.
Mới đây, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng đã chủ trì hội nghị về công tác điều hành tín dụng với sự tham dự của Ban lãnh đạo NHNN, các đơn vị thuộc NHNN, Chủ tịch Hội đồng quản trị/ Hội đồng thành viên và Tổng Giám đốc của các tổ chức tín dụng (TCTD). Tại hội nghị, đa số các TCTD đánh giá việc điều hành tín dụng của NHNN trong thời gian qua là phù hợp. Các ý kiến đều cho rằng chúng ta chưa thể bỏ công cụ hạn mức tín dụng. Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng 14% năm 2022 là phù hợp trong bối cảnh phục hồi kinh tế sau dịch và đã tăng cao hơn so với năm trước.
Kiểm soát tăng trưởng tín dụng đã được NHNN áp dụng từ năm 2011 và thực tế đã chứng minh đây là một biện pháp hiệu quả trong tổ chức điều hành, nhờ đó đã đưa thị trường tiền tệ tín dụng ổn định trở lại.
Từ năm 2012 đến nay, NHNN giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD căn cứ năng lực tài chính, quản trị, điều hành đặc thù của từng TCTD. Việc kiểm soát tăng trưởng tín dụng đối với từng TCTD đã khắc phục tình trạng cào bằng, đồng thời NHNN linh hoạt điều chỉnh trong năm để đảm bảo giám sát chặt chẽ việc mở rộng tín dụng của từng TCTD đi đôi với an toàn tín dụng, kiểm soát nợ xấu. Cụ thể:
Hàng năm, trên cơ sở dự báo kinh tế vĩ mô và căn cứ mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội về tăng trưởng GDP, lạm phát và các chỉ số cân đối vĩ mô được Quốc hội và Chính phủ đề ra, NHNN xây dựng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng cho hệ thống TCTD để đảm bảo góp phần thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế-xã hội nêu trên. Việc xây dựng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng được NHNN dựa trên các mô hình khoa học, được hỗ trợ kỹ thuật từ Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và các phương pháp tính toán khoa học, theo thông lệ quốc tế. Chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng của hệ thống TCTD được NHNN linh hoạt điều chỉnh hàng năm và từng thời kỳ đảm bảo bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ, phù hợp với cân đối tổng thể của các nguồn vốn khác của nền kinh tế và trên cơ sở đề nghị của TCTD để đảm bảo cung ứng đủ, kịp thời vốn tín dụng phù hợp với khả năng hấp thụ của nền kinh tế nhằm phục vụ tăng trưởng bền vững.
Theo NHNN, bộ tiêu chí và nguyên tắc phân bổ chỉ tiêu được NHNN xây dựng trên cơ sở: (i) Kết quả xếp hạng, đánh giá hàng năm của NHNN đối với từng TCTD; (ii) Cụ thể hóa chủ trương, định hướng điều hành tín dụng của Chính phủ và NHNN hàng năm. Theo đó, việc thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với từng TCTD được thực hiện theo nguyên tắc TCTD có mức xếp hạng tốt, tình hình hoạt động an toàn, lành mạnh hơn được phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cao hơn, qua đó thúc đẩy TCTD nâng cao năng lực quản trị, điều hành, tăng cường chất lượng, hiệu quả hoạt động và các chỉ số an toàn hoạt động. Bên cạnh đó, NHNN cũng xem xét một số yếu tố như giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, tín dụng tập trung vào lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, TCTD tham gia xử lý các quỹ tín dụng nhân dân yếu kém, tham gia hỗ trợ ngân hàng yếu kém… để làm cơ sở điều chỉnh tăng/giảm trong quá trình phân bổ/điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD. Các tiêu chí này được NHNN công bố từ đầu năm tại Chỉ thị số 01 hàng năm về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng.
Cũng theo NHNN, tổng kết quá trình triển khai công tác điều hành tăng trưởng tín dụng từ năm 2011 đến nay, tín dụng của toàn hệ thống đã được kiểm soát chặt chẽ, tăng trưởng dưới 20%/năm nhưng đóng góp hiệu quả vào tăng trưởng kinh tế bền vững, đảm bảo cung ứng đủ, kịp thời vốn, phù hợp với sức hấp thụ của nền kinh tế, góp phần kiểm soát và duy trì lạm phát ổn định dưới 4%. Bên cạnh đó, kiểm soát tăng trưởng tín dụng đã góp phần ổn định hệ thống ngân hàng, giảm mặt bằng lãi suất thị trường, thúc đẩy các TCTD nâng cao năng lực quản trị, điều hành và các chỉ số an toàn hoạt động, đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại, xử lý nợ xấu của hệ thống TCTD. Cơ cấu tín dụng cũng điều chỉnh tích cực, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên; tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được TCTD kiểm soát chặt chẽ.
Cùng với đó, NHNN đã ban hành nhiều quy định pháp luật để nâng cao chuẩn mực và năng lực quản trị, điều hành của hệ thống TCTD tiệm cận thông lệ quốc tế. Song song với việc yêu cầu hệ thống TCTD nâng cấp chuẩn mực quản trị điều hành như đề cập, NHNN đã áp dụng giải pháp giao hạn mức tăng trưởng tín dụng hàng năm cho hệ thống TCTD để đảm bảo TCTD được kiểm soát, giám sát dưới nhiều hình thức, phương pháp; qua đó góp phần ngăn chặn từ sớm, từ xa các hoạt động cấp tín dụng vượt quá khả năng quản trị của TCTD, từ đó không để nguy cơ đổ vỡ hệ thống trong quá khứ được phép lặp lại. Qua đó, có thể cho thấy nhờ việc áp dụng cả 2 biện pháp (hạn mức tăng trưởng tín dụng kết hợp với giám sát hoạt động của TCTD thông qua các hệ số an toàn), cơ cấu và chất lượng tín dụng, hoạt động của các TCTD đã có sự cải thiện tích cực, góp phần thực hiện hiệu quả việc cung ứng vốn cho nền kinh tế của hệ thống TCTD.
Phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch
Trên thực tế, tín dụng ngân hàng đang đóng vai trò chủ lực trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, trong khi nguồn huy động chủ yếu là kỳ hạn ngắn. Để giảm áp lực và giảm thiểu rủi ro cho hệ thống ngân hàng và đảm bảo đa dạng nguồn vốn hỗ trợ cho kinh tế phát triển bền vững thì cần các giải pháp để phát triển thị trường vốn an toàn, lành mạnh.
Ngày 11/7/2022, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đã ký ban hành Nghị quyết 86/NQ-CP của Chính phủ về phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, huy động nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội. Theo đó, sẽ hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm phát triển thị trường vốn an toàn, lành mạnh, hiệu quả, bền vững, nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, huy động tối đa các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống. Phát triển thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn chủ yếu cho nền kinh tế, tiếp tục điều chỉnh cơ cấu hợp lý giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn, thị trường cố phiếu và trái phiếu.
Nghị quyết cũng nêu những giải pháp thực hiện mục tiêu trên. Chẳng hạn, đối với thị trường cổ phiếu: Kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm đối với thị trường cổ phiếu để lành mạnh hóa thị trường, tăng cường các biện pháp chế tài để xử phạt nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật trên thị trường chứng khoán để bảo vệ nhà đầu tư, khôi phục niềm tin của thị trường, đặc biệt xử lý nghiêm, kịp thời tình trạng thao túng, làm giá, đảm bảo sự phát triển lành mạnh, minh bạch và bền vững; Đảm bảo hệ thống giao dịch vận hành an toàn, thông suốt; đầu tư đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ số, khẩn trương triển khai các biện pháp cần thiết để nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi để thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài.
Chính phủ giao Bộ Tài chính, NHNN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công an và các cơ quan có liên quan theo chức năng và nhiệm vụ được giao, chủ động theo dõi sát diễn biến của thị trường vốn, thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế để chủ động, kịp thời thực hiện biện pháp ổn định thị trường; phối hợp chặt chẽ trong điều hành chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế, qua đó tạo điều kiện ổn định, phát triển bền vững thị trường chứng khoán, tiền tệ, tín dụng; nghiên cứu đề xuất các giải pháp khuyến khích sự phát triển của nhà đầu tư là tổ chức, nhà đầu tư chuyên nghiệp, và thu hút nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường. Bộ Tài chính chỉ đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước yêu cầu các Sở Giao dịch chứng khoán và Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam rà soát các quy trình, quy chế liên quan đến hoạt động chứng khoán và hoạt động nghiệp vụ của các Sở Giao dịch chứng khoán và Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam; đảm bảo thị trường hoạt động thông suốt và đầu tư đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ số, khẩn trương triển khai các biện pháp cần thiết để nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi để thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài; rà soát văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ thuộc phạm vi quản lý của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước ban hành theo thẩm quyền.
Tới ngày 16/9/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định 65/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 153/2020/NĐ-CP về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế. Nghị định số 65/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về trái phiếu doanh nghiệp.
Theo đó, Nghị định mới đã sửa đổi, bổ sung nhiều điều, khoản so với Nghị định trước đó, như về điều kiện phát hành trái phiếu tuân thủ quy định tại Luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp. Nghị định cũng bổ sung quy định về hồ sơ chào bán trái phiếu gồm: Kết quả xếp hạng tín nhiệm theo các trường hợp và lộ trình thực hiện như quy định đối với chào bán trái phiếu ra công chúng (từ 01/01/2023); hợp đồng ký kết với đại diện người sở hữu trái phiếu trong trường hợp chào bán cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân và xác nhận của ngân hàng thương mại về việc mở tài khoản nhận tiền mua trái phiếu.
Về yêu cầu trách nhiệm của doanh nghiệp phát hành, bổ sung quy định doanh nghiệp phải mua lại trước hạn bắt buộc khi vi phạm phương án phát hành (trong đó có phương án sử dụng vốn) hoặc vi phạm pháp luật; trước và sau khi phát hành phải có công bố thông tin về khả năng đảm bảo thanh toán, báo cáo kiểm toán tình hình tài chính và kiểm toán tình hình sử dụng vốn theo mục đích phát hành đã được công bố; Bên cạnh đó, Nghị định bổ sung quy định tài sản bảo đảm của trái phiếu phải được định giá và đăng ký biện pháp bảo đảm; Bổ sung các quy định để tăng tính chuyên nghiệp của nhà đầu tư cá nhân khi mua trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, hạn chế tối đa nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ gian lận để mua trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ. Nghị định cũng bổ sung quy định nhằm tăng cường tính minh bạch và tuân thủ pháp luật của các tổ chức cung cấp dịch vụ, đồng thời bổ sung quy định để thiết lập thị trường giao dịch có tổ chức.
Theo các chuyên gia, Nghị định 65 sẽ góp phần giảm thiểu rủi ro mất cân đối nguồn vốn hệ thống ngân hàng, do đó các ngân hàng thương mại sẽ được hưởng lợi từ chính sách mới. Nghị định 65 tạo hành lang pháp lý và chế tài rõ ràng sẽ khuyến khích thêm nhiều doanh nghiệp tiếp cận kênh trái phiếu, từ đó giảm tải gánh nặng đối với nguồn tín dụng hiện nay. Các ảnh hưởng tích cực của Nghị định 65 sẽ giúp phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp thành kênh huy động vốn trung và dài hạn chính, trả lại chức năng thực cho kênh tín dụng ngân hàng là nguồn vốn ngắn hạn tập trung cho vay tiêu dùng và mua nhà.
Thực tế cho thấy, tín dụng bất động sản có đến 94% nguồn vốn là cho vay trung và dài hạn nhưng lại đang đè nặng lên hệ thống ngân hàng thương mại vốn có bản chất huy động ngắn hạn. Nhu cầu vốn của ngành bất động sản gây sức ép trong khicác ngân hàng mặc dù đã được nới room nhưng không quá nhiều khiến cho áp lực ngày một tăng cao. Hơn nữa, trong thời gian tới các tổ chức này vẫn tiếp tục phải giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn xuống 34% theo lộ trình của Ngân hàng Nhà nước.
Trong khi đó, tính đến hết tháng 6/2022, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp đang lưu hành đạt gần 1,5 triệu tỷ đồng và mới chỉ tương đương 1/3 tổng dư nợ tín dụng vay trung - dài hạn của hệ thống ngân hàng, đồng nghĩa với việc thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang tăng trưởng rất nhanh và còn nhiều dư địa phát triển.