Đối với sự phát triển của hệ thống ngân hàng, dấu hiệu khi xảy ra khó khăn hoặc khủng hoảng cho thấy các cơ chế chính sách đang áp dụng không còn phù hợp và đòi hỏi phải có cải cách, tái cấu trúc đối với hệ thống. Kinh nghiệm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng của một số nước trên thế giới như Thái Lan, Malaysia và Hàn Quốc cho thấy hiệu quả của chính sách này khi được thực hiện ở những giai đoạn phù hợp và có những bước đi cụ thể, chắc chắn.
Hệ thống ngân hàng Thái Lan và quá trình tái cấu trúc
Tác động lớn từ khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đã khiến hệ thống ngân hàng Thái Lan phải tái cấu trúc để vượt qua khó khăn và hoạt động ổn định hơn. Trong bối cảnh này, Chính phủ quốc gia đã quyết định đóng cửa một số định chế tài chính không còn khả năng tiếp tục hoạt động, đồng thời giao Ủy ban Tái cơ cấu tài chính tổ chức bán đấu giá tài sản của 58 công ty tài chính bị đóng cửa và thu được gần 200 tỷ Bath. Ngoài ra, chiến lược sáp nhập, hợp nhất các định chế tài chính cũng được tiến hành và kết quả là Bank Thai ra đời (do sự hợp nhất của 13 công ty tài chính và Unionbank), Ngân hàng First Bangkok city hợp nhất với Krung Thaibank và được tái cấp vốn 200 tỷ Bath. Còn lại Bangkokbank được bán lại hoàn toàn cho công ty quản lý tài sản.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng thực hiện tái cấp vốn cho các định chế tài chính để duy trì hoạt động, áp dụng các biện pháp như: sử dụng quỹ công vào việc tái cấp vốn dưới một số điều kiện đặc biệt, khuyến khích các ngân hàng tái cơ cấu các khoản cho vay và tăng tín dụng cho khu vực tư nhân, thiết lập cơ sở pháp lý về thành lập các công ty xử lý tài sản xấu và thông báo chi tiết các biện pháp xử lý đối với các ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt.
Đối với việc xử lý các khoản nợ xấu, Chính phủ Thái Lan đã thành lập Ủy ban tái cơ cấu khu vực tài chính và Công ty quản lý tài sản vào tháng 10/1997 để phân loại và tách các khoản nợ không hoạt động ra khỏi bảng cân đối tài sản của các ngân hàng thương mại (NHTM), sau đó mang ra bán đấu giá, đồng thời thông qua Luật phá sản và thành lập tòa án chuyên giải quyết các vụ phá sản.
Sau tái cấu trúc, tại Thái Lan chỉ có 2 NHTM đóng cửa, sáp nhập, 56 công ty tài chính bị đóng cửa, 13 công ty khác và 5 ngân hàng được sáp nhập. Các ngân hàng còn lại đều đã tăng được đủ số vốn quy định sau 12 tháng, tuy nhiên, quá trình tăng vốn vẫn tiếp tục sau đó để đạt được tiêu chuẩn về phân loại nợ và trích lập dự phòng theo chuẩn quốc tế vào năm 2000.
Các ngân hàng quốc doanh sau đó được cổ phần hóa với sự hỗ trợ của các ngân hàng đầu tư của nước ngoài. Chính phủ đã tập trung đảm bảo quá trình chuyển đổi này được diễn ra minh bạch. Tại một số ngân hàng thương mại cổ phần trong nước, tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài đã vượt quá 50%.
Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng ở Malaysia
Malaysia là một trong những nước trong khu vực có công cuộc cải tổ các NHTM Nhà nước mạnh mẽ và khá thành công. Chính phủ Malaysia đã thành lập công ty nhà nước Danahatar để mua, bán, quản lý và xử lý nợ với số vốn ban đầu là 10 tỷ Ringit (RM). Nhiệm vụ của Danahatar là quản lý, kiểm soát tài sản có vấn đề từ các ngân hàng, các công ty tài chính để các tổ chức này nhanh chóng khôi phục lại hoạt động cho vay.
Đối với việc tái cấp vốn cho các ngân hàng duy trì hoạt động, Malaysia thành lập Ban tái cấp vốn Danamodal Nasional Berhad (Danamodal). Các biện pháp Danamodal áp dụng chủ yếu là khuyến khích việc sáp nhập và hợp nhất với mục tiêu phục hồi hệ thống tài chính và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong giai đoạn mới. Theo đó, Danamodal thực hiện sát hạch để sàng lọc những ngân hàng yếu kém hoặc không đủ khả năng duy trì hoạt động, từ đó lên kế hoạch tái cấp vốn.
Có thể nói trong công cuộc cơ cấu lại các NHTM Nhà nước Malaysia, bên cạnh vai trò xây dựng và chỉ đạo kế hoạch của NHTW , ba tổ chức lớn đã phối hợp hiệu quả để triển khai tái cơ cấu là Danahatar, Danamodal và Ủy ban Tái cơ cấu nợ công ty (Corporate Debt Restructuring Committee).
Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Để ngăn chặn tác động từ khủng hoảng, Chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng một lộ trình thứ tự các bước thực hiện một số bước quan trọng để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Đầu tiên là rà soát và phân loại ngân hàng. Mục tiêu chính của việc phân loại này là nhằm tạo ra các ngân hàng lớn sau khi hợp nhất và sáp nhập có đủ năng lực về tài chính và năng lực cạnh tranh, thu hẹp phạm vi hoạt động của các ngân hàng quy mô vừa, tập trung phát triển các hoạt động kinh doanh chính và duy trì các ngân hàng nhỏ nhưng hoạt động an toàn và hiệu quả, chỉ để phục vụ cho các vùng địa phương đặc biệt.
Sau khi đánh giá và phân loại nợ xấu, Chính phủ Hàn Quốc đã thành lập các Công ty quản lý nợ xấu Hàn Quốc (viết tắt là KAMCO) để mua lại các khoản nợ xấu từ các TCTD có kế hoạch sáp nhập và hợp nhất. Chính phủ cũng khuyến khích các NHTM sáp nhập và hợp nhất lại với nhau để tăng khả năng cạnh tranh hiệu quả với các ngân hàng nước ngoài. Đến cuối năm 2005, quá trình tái cơ cấu đã đưa tổng số ngân hàng ở Hàn Quốc từ 33 ngân hàng vào năm 1997 xuống còn 19 ngân hàng.
Song song với hoạt động mua bán, sáp nhập các TCTD, Chính phủ Hàn Quốc tập trung vào nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng cũng như ban hành các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan an toàn hoạt động ngân hàng cũng được điều chỉnh, sửa đổi để đảm bảo hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định và an toàn trong tương lai.
Bên cạnh việc sử dụng các biện pháp nêu trên, Chính phủ Hàn Quốc còn tăng cường sự tham gia của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) vào tái cấu trúc hệ thống ngân hàng với nền tảng pháp lý minh bạch, đầy đủ và ổn định. Theo đó, KDIC có vị thế độc lập tương đối và chủ động trong phối hợp với các cơ quan khác trong mạng an toàn tài chính để xử lý đổ vỡ ngân hàng và khủng hoảng tài chính một cách hiệu quả, góp phần khôi phục ổn định hệ thống tài chính ngân hàng và ổn định kinh tế vĩ mô tại Hàn Quốc.Trong quy trình xử lý, KDIC giảm thiểu rủi ro đạo đức bằng cách áp dụng nguyên tắc chi phí tối thiểu, chia sẻ thiệt hại. KDIC cũng đã thực hiện điều tra và truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với cá nhân, tổ chức gây ra đổ vỡ tại các tổ chức tài chính. Nhờ đó, công tác quản trị tại các tổ chức tài chính đã được cải thiện rõ rệt, hệ thống tài chính ngân hàng khôi phục và hoạt động ổn định, hiệu quả hơn.
Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ở mỗi quốc gia đều có những điểm đặc thù và hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Trên cơ sở bài học về tái cơ cấu từ các quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Malaysia và Hàn Quốc, hệ thống ngân hàng có thể học hỏi và rút ra một số kinh nghiệm hữu ích, cụ thể:
- Tiến hành đồng bộ, không chỉ các ngân hàng yếu kém mà các ngân hàng tốt cũng phải tái cơ cấu;
- Cần giảm thiểu rủi ro đạo đức khi giải quyết các ngân hàng có vấn đề, quyền lợi và trách nhiệm của cổ đông, người lao động và người quản lý cần được xem xét và điều chỉnh công bằng;
- Tăng cường hơn nữa quản trị ngân hàng để giảm rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản;
- Tiếp tục sáp nhập, khuyến khích các ngân hàng tự nguyện sáp nhập;
- Cần sớm xử lý nợ xấu một cách hiệu quả. Một trong những công cụ của nhà nước để xử lý nợ xấu là công ty mua bán nợ VAMC. Để công cụ này hoạt động hiệu quả, VAMC cần có một bộ luật riêng về xử lý nợ xấu.
- Tăng cường phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiểm soát có hiệu quả lạm phát, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh phục hồi tăng trưởng.
Hệ thống ngân hàng đang trong giai đoạn chuyển mình và từng bước tái cơ cấu. Chính vì vậy, Việt Nam cần tích cực tham khảo kinh nghiệm từ các quốc gia trong khu vực để đảm bảo quá trình tái cơ cấu được triển khai theo nguyên tắc cẩn trọng, tận dụng tối đa nguồn lực của nền kinh tế để góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng và bảo vệ tốt hơn quyền lợi người gửi tiền.
Ths.Hồ Thanh Xuân
Tài liệu tham khảo:
(1) Sammeer Goyal, Tái cấu trúc ngân hàng có vấn đề: các bài học từ kinh nghiệm toàn cầu, Ngân hàng thế giới, tháng 12 năm 2011.
(2) Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
(3) http://www.thanhnien.com.vn/kinh-te/tai-co-cau-ngan-hang-can-co-che-dong-bo-460570.html