Minh bạch hóa hoạt động của TCTD, hạn chế tình trạng thao túng
Theo Vụ Pháp chế (NHNN), để nâng cao năng lực quản trị, điều hành, minh bạch hóa hoạt động của TCTD, hạn chế tình trạng thao túng, chi phối hoạt động của cổ đông lớn tại TCTD, Luật Các TCTD sửa đổi, bổ sung quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần theo hướng giảm giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông là tổ chức và của nhóm cổ đông và người có liên quan; có lộ trình giảm giới hạn cấp tín dụng; sửa đổi, bổ sung quy định về khái niệm người có liên quan; bổ sung trách nhiệm công bố, công khai thông tin của cổ đông sở hữu từ 01% vốn điều lệ của TCTD trở lên, người quản lý, người điều hành của TCTD, bảo đảm quyền của cổ đông thiểu số; sửa đổi, bổ sung các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện người quản lý, điều hành, nâng cao tính độc lập, chuyên trách của thành viên Hội đồng quản trị độc lập; thành viên Ban kiểm soát; tăng số lượng tối thiểu thành viên Ban kiểm soát của ngân hàng thương mại, sửa đổi, bổ sung để tăng cường trách nhiệm Ban kiểm soát của TCTD; sửa đổi, bổ sung các quy định tăng cường vai trò của ngân hàng hợp tác xã trong việc hỗ trợ quỹ tín dụng nhân dân thành viên... Bên cạnh đó, Luật cũng bổ sung quy định để hợp nhất Giấy phép thành lập và hoạt động của TCTD, đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, phù hợp với định hướng chung của Đảng, Nhà nước trong việc cắt giảm thủ tục hành chính, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Cụ thể, tại Điều 49 quy định về cung cấp, công bố công khai thông tin:
“2. Cổ đông sở hữu từ 01% vốn điều lệ trở lên của TCTD phải cung
cấp cho TCTD các thông tin sau đây:
a) Họ và tên; số định danh cá nhân; quốc tịch, số hộ chiếu, ngày cấp, nơi cấp
của cổ đông là người nước ngoài; số Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc
giấy tờ pháp lý tương đương của cổ đông là tổ chức; ngày cấp, nơi cấp của giấy
tờ này; b) Thông tin về người có liên quan theo quy định tại điểm c và điểm d khoản
1 Điều này; c) Số lượng, tỷ lệ sở hữu cổ phần của mình tại TCTD đó; d) Số lượng, tỷ lệ sở hữu cổ phần của người có liên quan của mình tại TCTD đó”.
Tại Điều 63 quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần:
“1. Một cổ đông là cá nhân không được sở hữu cổ phần vượt quá 05% vốn
điều lệ của một TCTD.
2. Một cổ đông là tổ chức không được sở hữu cổ phần vượt quá 10% vốn
điều lệ của một TCTD.
3. Cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu cổ phần
vượt quá 15% vốn điều lệ của một TCTD. Cổ đông lớn của một TCTD và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu cổ phần từ 05% vốn điều lệ trở lên của một TCTD khác”.
Về hoạt động đại lý bảo hiểm của TCTD, Luật Các TCTD cũng bổ sung quy định về cấm TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, người quản lý, người điều hành, nhân viên của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài gắn việc bán sản phẩm bảo hiểm không bắt buộc với việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng dưới mọi hình thức” (tại Điều 15. Hành vi bị nghiêm cấm)
Vụ Pháp chế (NHNN) cho biết, các quy định tại Luật được đánh giá là tương đối chặt chẽ nhưng cần thiết, giúp các TCTD xây dựng mô hình tổ chức phù hợp với thông lệ và thực tiễn hoạt động. Bên cạnh đó, việc bổ sung các quy định về an toàn trong hoạt động của TCTD nhằm ngăn ngừa việc lạm dụng quyền quản trị, điều hành, quyền cổ đông lớn để thao túng hoạt động của TCTD giúp TCTD hoạt động lành mạnh, an toàn, tạo tâm lý tin tưởng cho người gửi tiền vào hệ thống TCTD. Để hạn chế tác động lớn tới thị trường khi Luật được ban hành, Luật có quy định điều khoản chuyển tiếp đối với những quy định được sửa đổi, bổ sung tại Luật.
Bổ sung một số hoạt động mới của TCTD phù hợp thực tiễn
Theo Vụ Pháp chế (NHNN), Luật Các TCTD (sửa đổi) bổ sung một số hoạt động mới phù hợp với thực tiễn hoạt động của TCTD như: hoạt động ngân quỹ, hoạt động giao đại lý trong lĩnh vực thanh toán...; sửa đổi, bổ sung quy định về một số hoạt động của TCTD để đảm bảo rõ ràng, phù hợp với thông lệ quốc tế như: quy định về thư tín dụng, bao thanh toán, đại lý quản lý tài sản....
Bên cạnh đó, để nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của người dân, Luật sửa đổi, bổ sung quy định về cấp tín dụng, đơn giản hóa thủ tục cho các khoản cấp tín dụng nhỏ lẻ; sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan, tạo lập hành lang pháp lý cho việc cung ứng dịch vụ ngân hàng qua phương tiện điện tử, như bổ sung quy định điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng bằng phương tiện điện tử, quy định về Giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng; bổ sung quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát và triển khai các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới trong hoạt động ngân hàng...; sửa đổi, bổ sung quy định về hoạt động của TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô, quỹ tín dụng nhân dân theo hướng mở rộng hơn phạm vi hoạt động cho các loại hình TCTD này trên cơ sở phù hợp năng lực và an toàn hoạt động đối với từng loại hình.
Các quy định sửa đổi, bổ sung tại Luật đảm bảo cơ sở pháp lý rõ ràng, minh bạch cho hoạt động của TCTD, xử lý các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của TCTD thời gian qua, đồng thời tạo cơ sở để TCTD đổi mới hoạt động đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và nâng cao năng lực cạnh tranh.
TCTD phải xây dựng phương án khắc phục dự kiến trong trường hợp bị can thiệp sớm
Về xử lý TCTD có vấn đề, Vụ Pháp chế (NHNN) cho hay, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế, Luật Các TCTD bổ sung quy đinh yêu cầu các ngân hàng thương mại (NHTM), chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải xây dựng phương án khắc phục dự kiến trong các trường hợp bị can thiệp sớm. Quy định này nhằm yêu cầu các NHTM có sẵn các kịch bản cho trường hợp bị can thiệp sớm, theo đó khi TCTD có vấn đề phát sinh thì triển khai ngay các giải pháp cần thiết, đảm bảo tính kịp thời.
Luật Các TCTD thay đổi về cách tiếp cận đối với can thiệp sớm TCTD. Theo đó, can thiệp sớm không phải là một trạng thái xử lý cụ thể, trên tinh thần từ xa, từ sớm, khi phát hiện các TCTD thuộc trường hợp can thiệp sớm, NHNN có văn bản gửi TCTD để thực hiện các yêu cầu, hạn chế, xây dựng, cập nhật phương án khắc phục để khắc phục các vấn đề trong hoạt động của TCTD để TCTD đó quay trở lại hoạt động bình thường. Luật Các TCTD cũng bổ sung các trường hợp can thiệp sớm so với Luật hiện hành như trường hợp TCTD có lỗ lũy kế lớn hơn 15% vốn điều lệ, vốn được cấp và các quỹ dự trữ… Trong quá trình TCTD thực hiện phương án khắc phục, NHNN có thể xem xét điều chỉnh theo hướng áp dụng bổ sung thêm, kéo dài hoặc rút ngắn thời gian áp dụng các biện pháp, hạn chế để phù hợp với tình hình thực hiện phương án khắc phục của TCTD. Trường hợp TCTD thực hiện thành công phương án khắc phục và trở lại hoạt động bình thường thì việc áp dụng các biện pháp hạn chế, yêu cầu của NHNN cũng chấm dứt.
Luật Các TCTD cũng bổ sung quy định về rút tiền hàng loạt, trong đó quy định rõ các biện pháp hỗ trợ thanh khoản, các biện pháp khác đối với TCTD khi tổ chức này bị rút tiền hàng loạt, đảm bảo an toàn hệ thống và đảm bảo quyền lợi người gửi tiền.
Trên cơ sở kế thừa Luật hiện hành, Luật các TCTD quy định về kiểm soát đặc biệt và các phương án cơ cấu lại TCTD, trong đó có điều chỉnh để xử lý những khó khăn, vướng mắc phát sinh thời gian qua.
Cụ thể, tại Điều 156. Thực hiện can thiệp sớm TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài:
“NHNN xem xét, quyết định thực hiện can thiệp sớm khi tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thuộc một hoặc một số trường hợp sau đây:
a) Số lỗ lũy kế của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài lớn hơn 15% giá trị của vốn điều lệ, vốn được cấp và quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất hoặc theo kết luận thanh tra, kiểm toán của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu quy định tại điểm b khoản 1 Điều 138 của Luật này;
b) Xếp hạng dưới mức trung bình theo quy định của Thống đốc NHNN;
c) Vi phạm tỷ lệ khả năng chi trả quy định tại điểm a khoản 1 Điều 138 của Luật này trong thời gian 30 ngày liên tục;
d) Vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu quy định tại điểm b khoản 1 Điều 138 của Luật này trong thời gian 06 tháng liên tục;
đ) Bị rút tiền hàng loạt và có báo cáo gửi NHNN”.
Tại Điều 162. Áp dụng kiểm soát đặc biệt TCTD:
NHNN xem xét, quyết định đặt TCTD vào kiểm soát đặc biệt khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) TCTD được can thiệp sớm không có phương án khắc phục gửi NHNN hoặc không điều chỉnh phương án khắc phục theo yêu cầu bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước;
b) Trong thời hạn thực hiện phương án khắc phục, TCTD được can thiệp sớm không có khả năng thực hiện phương án khắc phục;
c) Hết thời hạn thực hiện phương án khắc phục mà TCTD không khắc phục được tình trạng cần can thiệp sớm;
d) Bị rút tiền hàng loạt và có nguy cơ gây mất an toàn hệ thống các TCTD;
đ) Tỷ lệ an toàn vốn của TCTD thấp hơn 04% trong thời gian 06 tháng liên tục;
e) TCTD bị giải thể không có khả năng thanh toán đầy đủ các khoản nợ trong quá trình thanh lý tài sản”.
Tại Điều 157. Các yêu cầu, biện pháp hạn chế đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được can thiệp sớm:
1. Các yêu cầu đối với TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được can thiệp sớm bao gồm:
a) Tăng vốn điều lệ, vốn được cấp; tăng cường nắm giữ tài sản có tính thanh khoản cao và thực hiện các giải pháp khác để đáp ứng yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng;
b) Cắt giảm chi phí hoạt động, chi phí quản lý, thù lao, lương, thưởng; yêu cầu bồi hoàn thù lao, tiền thưởng đối với người quản lý, người điều hành, thành viên Ban kiểm soát;
c) Tăng cường quản trị rủi ro; tổ chức lại bộ máy quản trị, điều hành.
2. Các biện pháp hạn chế đối với TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được can thiệp sớm bao gồm:
“a) Không chia cổ tức, lợi tức, phân phối lợi nhuận sau thuế sau khi trích lập các quỹ, chuyển lợi nhuận về nước; hạn chế chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp, chuyển nhượng tài sản;
b) Hạn chế hoạt động kinh doanh không hiệu quả, có rủi ro cao; giảm giới hạn cấp tín dụng, giới hạn góp vốn, mua cổ phần; hạn chế tăng trưởng tín dụng;
c) Đình chỉ, tạm đình chỉ một hoặc một số hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác có dấu hiệu vi phạm pháp luật; không bổ sung nội dung hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh mới khác, không mở rộng mạng lưới hoạt động;
d) Đình chỉ người quản lý, người điều hành có hành vi vi phạm quy định pháp luật hoặc gây rủi ro lớn đến hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; yêu cầu bầu, bổ nhiệm thay thế người quản lý, người điều hành có hành vi vi phạm quy định pháp luật hoặc gây rủi ro lớn đến hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được can thiệp sớm;
đ) Biện pháp khác theo thẩm quyền của NHNN”.
Tại Điều 159 quy định biện pháp hỗ trợ TCTD được can thiệp sớm:
“Mục 2. Trong thời gian thực hiện phương án khắc phục, TCTD được can thiệp sớm có lỗ lũy kế lớn hơn 50% vốn điều lệ và các quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất hoặc theo kết luận thanh tra, kiểm toán của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ngoài các biện pháp quy định tại khoản 1 Điều này, được áp dụng thêm một hoặc một số biện pháp hỗ trợ sau đây sau khi được NHNN chấp thuận bằng văn bản:
a) Trường hợp số tiền phải trích lập dự phòng rủi ro lớn hơn chênh lệch thu chi từ kết quả kinh doanh hằng năm chưa bao gồm số tiền dự phòng rủi ro đã tạm trích trong năm thì số tiền trích lập dự phòng rủi ro bằng chênh lệch thu chi;
b) Trường hợp TCTD có lãi phải thu phải thoái, TCTD được phân bổ lãi phải thu phải thoái theo năng lực tài chính trên nguyên tắc tổng mức phân bổ lãi phải thu phải thoái và số tiền phải trích lập dự phòng bằng chênh lệnh thu chi từ kết quả kinh doanh hằng năm của tổ chức tín dụng. Thời gian phân bổ lãi phải thu phải thoái tối đa 05 năm kể từ ngày được NHNN chấp thuận và chỉ áp dụng cho khoản phải thu phát sinh đến thời điểm NHNN có văn bản quy định tại khoản 2 Điều 156 của Luật này. Chính phủ quy định trường hợp TCTD có thời gian phân bổ lãi phải thu phải thoái lớn hơn 05 năm nhưng tối đa không quá 10 năm trong trường hợp cần thiết; c) Quỹ tín dụng nhân dân được vay từ Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân với lãi suất ưu đãi theo quy định của Thống đốc NHNN; d) Quỹ tín dụng nhân dân được ngân hàng hợp tác xã hỗ trợ cử nhân sự tham gia quản trị, điều hành; hỗ trợ về công nghệ thông tin; đ) Biện pháp khác theo thẩm quyền của NHNN”.
Xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu
Trên cơ sở tổng kết quá trình thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH14, Luật các TCTD luật hóa một số quy định về nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (tại Chương XII của Luật) như: quy định về bán nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu; mua, bán nợ xấu của tổ chức mua bán, xử lý nợ; Mua, bán khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu…; đồng thời Luật cũng có quy định chuyển tiếp cho một số trường hợp đang áp dụng quy định của Nghị quyết 42 nhưng không luật hóa tại Luật này.
Hướng tới sự an toàn, minh bạch cao hơn trong hoạt động ngân hàng
Những nội dung trong Luật được các chuyên gia và thị trường kỳ vọng có thể hạn chế các mối quan hệ lợi ích nhóm, từ đó tạo sự minh bạch cao hơn, đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Theo TS. Nguyễn Đức Độ - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế - Tài chính, Học viện Tài chính, Luật Các TCTD (sửa đổi) sẽ góp phần giúp hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, ổn định hơn. Điểm đổi mới được quan tâm nhất là các quy định về giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần, giảm giới hạn cấp tín dụng, tăng yêu cầu về cung cấp thông tin đối với cổ đông. Về cơ bản, các điểm mới có mục tiêu chính là hạn chế tình trạng sở hữu chéo cũng như chi phối, thao túng ngân hàng, từ đó giúp hệ thống TCTD trở nên công khai, minh bạch và an toàn hơn.
Ông Võ Minh Chiến - Chuyên viên phân tích thuộc Công ty chứng khoán VNDirect đánh giá, quy định về việc hạn chế sở hữu cổ phần trong TCTD sẽ giúp hạn chế tình trạng sở hữu chéo và giảm thiểu rủi ro có thể gây tác động đến hoạt động của TCTD. Tương tự, việc giảm tỷ lệ cho vay đối với một khách hàng và người có liên quan giúp đa dạng hóa danh mục tín dụng, giảm thiểu rủi ro đạo đức từ phía khách hàng và rủi ro quá hạn cho TCTD.
TS. Châu Đình Linh, giảng viên Đại học Ngân hàng TP.HCM cho rằng: “Từ các quy định trong Luật có thể thấy rõ mục tiêu của Nhà nước là nhằm ổn định và đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. Để làm được việc này, cơ sở pháp lý mới hướng tới việc xử lý những điểm hạn chế hiện nay như nợ xấu, tình trạng sở hữu chéo, cấp tín dụng “sân sau”, “ép” khách vay mua bảo hiểm, tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém. Đồng thời, Luật cũng có những quy định đối với các mô hình tài chính mới, bắt kịp sự phát triển của ngành tài chính - ngân hàng. Nếu thực hiện tốt các quy định mới, trong đó, khâu giám sát được thực thi hiệu quả thì có thể kỳ vọng sự phát triển tích cực của hệ thống ngân hàng trong thời gian tới. Để thực hiện được điều này, các quy định hướng dẫn dưới Luật cần phải rõ ràng, chặt chẽ và khả thi”.
TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cho rằng, Luật Các TCTD (sửa đổi) kiến tạo khung pháp lý để phát triển một số dịch vụ ngân hàng hiện đại, góp phần luật hóa việc xử lý nợ xấu trên tinh thần Nghị quyết số 42/2017/QH14, đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, trong bối cảnh Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi), Luật Nhà ở. Tuy nhiên, ông Lực cho rằng, điểm quan trọng nhất trong thời gian tới là khâu hướng dẫn, triển khai thực hiện sớm. Cơ quan đầu mối khi xây dựng hướng dẫn triển khai cần thực hiện lấy ý kiến của nhiều bên liên quan để đảm bảo đa chiều, khả thi và sát thực tiễn.
Trong luật lần này đã bổ sung thêm quy định về can thiệp sớm các TCTD cần hỗ trợ và quy định về xử lý trường hợp TCTD bị rút tiền hàng loạt. “Động thái này sẽ hỗ trợ ổn định tâm lý thị trường và người gửi tiền trước những lo ngại về rủi ro thanh khoản hệ thống trong tương lai” - chuyên gia Công ty cổ phần Chứng khoán VNDIRECT nhận định.
Thanh Thủy