Thông qua việc triển khai các hoạt động nghiệp vụ BHTG tại Chi nhánh BHTGVN khu vực ĐBSCL, nhìn chung, các tổ chức tham gia BHTG đã dần nắm bắt được các chính sách mới về BHTG, thực hiện khá tốt các quy định của pháp luật về BHTG, từ đó nâng cao niềm tin công chúng vào các tổ chức tham gia BHTG, đặc biệt đối với hệ thống QTDND (thể hiện ở số lượng tiền gửi dân cư của 155 QTD tại địa bàn tăng trưởng khá đều và ổn định qua các năm: năm 2013 tăng trưởng 18%, năm 2014 tăng trưởng 21%), góp phần tạo thêm nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế tại khu vực.
Tuy nhiên, thời gian qua, Chi nhánh cũng gặp không ít trở ngại, khó khăn trong quá trình triển khai chính sách mới về BHTG. Nguyên nhân chủ yếu là do chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể về đối tượng được bảo hiểm, thu hồi chứng nhận BHTG, theo dõi kiểm soát đặc biệt, trao đổi thông tin với NHNN,…. Bên cạnh đó, quá trình triển khai quy định về khung phí và tính phí theo mức độ rủi ro, việc thay đổi hạn mức BHTG còn chậm, gây trở ngại cho công tác nghiệp vụ của Chi nhánh.
Nhằm sớm khắc phục những trở ngại, khó khăn nêu trên, ở góc độ trao đổi, nghiên cứu, tác giả xin đề xuất một số nội dung sau để các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, xem xét triển khai trong thời gian tới:
1. Về công tác cấp, cấp lại và thu hồi chứng nhận BHTG, đề nghị xem xét, nghiên cứu hướng dẫn và quy định rõ nội dung ghi trên Chứng nhận BHTG theo Điểm c, Khoản 1, Điều 3 Chương II Thông tư 24/2014/TT-NHNN ngày 06/9/2014, đồng thời sớm triển khai việc cấp Chứng nhận BHTG theo quy định mới.
2. Về việc tính và thu phí BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG, đề nghị BHTGVN xem xét, nghiên cứu sớm triển khai việc tính phí theo mức độ rủi ro, cũng như tham mưu với NHNNVN trình Thủ tướng quy định khung phí BHTG theo Khoản 1, Khoản 2 Điều 20 Luật BHTG.3. Đối tượng được BHTG: đã được quy định tại Điều 18, 19 Luật BHTG, tuy nhiên đến nay vẫn chưa được hướng dẫn cụ thể, do đó cầnquy định rõ về “các hình thức tiền gửi khác được bảo hiểm”; việc xử lý khi thực hiện thu phí, chi trả đối với trường hợp tiền gửi cá nhân là đồng sở hữu; cách xác định tiền gửi hộ kinh doanh và tiền gửi cá nhân.
4. Điều chỉnh hạn mức trả tiền bảo hiểm là vấn đề đã được đề cập khá nhiều từ khi Luật BHTG có hiệu lực nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được (mức 50trđ/người được quy định từ tháng 8/2005 đến nay đã không còn phù hợp). Do đó, đề nghị BHTGVN xem xét để có ý kiến đề xuất, tham mưu với NHNNVN sớm trình Thủ tướng ban hành hạn mức mới phù hợp với thực tiễn, vừa đủ cao nhằm nâng cao niềm tin công chúng gửi tiền vào các tổ chức tham gia BHTG, vừa đảm bảo không quá năng lực tài chính của BHTGVN và có thể hạn chế được các rủi ro đạo đức về BHTG.
5. Thời điểm thu hồi chứng nhận BHTG sau khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm chưa được quy định rõ đối với trường hợp thu hồi Chứng nhận BHTG của tổ chức tham gia BHTG là QTDND, vướng mắc chủ yếu do: (i) Theo quy định, BHTGVN chỉ thu hồi Chứng nhận BHTG của tổ chức tham gia BHTG khi NHNNVN có quyết định rút giấy phép thành lập và hoạt động (khoản 2 Điều 16 Luật BHTG); (ii) tổ chức tham gia BHTG là QTDND khi đề nghị NHNNVN có quyết định rút giấy phép thành lập và hoạt động thì hồ sơ phải bao gồm Quyết định của tòa án về việc tuyên bố phá sản QTDND (Điều 27 Quyết định số 24/2006/QĐ-NHNN ngày 06/06/2006); (iii) Để có Quyết định tuyên bố phá sản của tòa án, tổ chức tham gia BHTG là QTDND bị phá sản phải mở thủ tục phá sản theo quy định tại Nghị định số 05/2010/NĐ-CP ngày 18/01/2010, theo trình tự thì cần phải có nhiều thời gian để tòa án xem xét, quyết định mở thủ tục phá sản, mở thủ tục thanh lý và tuyên bố phá sản. Do đó, để thực hiện việc thu hồi Chứng nhận BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG là QTDND bị phá sản sẽ mất nhiều thời gian, có thể ảnh hưởng đến tiến độ trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức này.
Đề nghị BHTGVN xem xét để có ý kiến đề xuất, tham mưu NHNNVN có hướng dẫn thu hồi Chứng nhận BHTG đối với các tổ chức tham gia BHTG trong trường hợp phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm theo hướng thực hiện thu hồi ngay Chứng nhận BHTG sau khi NHNN có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng là tổ chức tham gia BHTG vẫn lâm vào tình trạng phá sản.
6. Sớm quy định cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin giữa BHTGVN và NHNNVN cũng như ở cấp chi nhánh nhằm tăng cường công tác trao đổi thông tin giám sát với NHNNVN, nắm sát hơn tình hình hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG để có thể kịp thời phối hợp, ngăn chặn những rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng.
7. Đề nghị xem xét và sớm hướng dẫn cụ thể những thông tin về tiền gửi được bảo hiểm mà các tổ chức tham gia BHTG phải cung cấp (có thể là số dư tiền gửi được bảo hiểm, bảng tính phí BHTG, sự thay đổi về hồ sơ tham gia BHTG…) cũng như thời hạn cung cấp các thông tin này.
8. BHTGVN ban hành các văn bản hướng dẫn để thực hiện thống nhất trong toàn hệ thống các quy trình về kiểm tra, giám sát, chi trả đối với các tổ chức tham gia BHTG cũng như sớm ban hành các quy chế về tham gia quá trình kiểm soát đặc biệt và tham gia quản lý thanh lý tài sản theo quy định mới của Luật BHTG. Cùng với đó, rà soát và thông báo danh sách những văn bản quy định về cơ chế quản trị điều hành, hướng dẫn nghiệp vụ đã không còn hiệu lực hoặc có thay thế để tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu, triển khai.
Nguyễn Đăng Khoa
Phòng Kiểm Tra – Chi nhánh BHTGVN khu vực ĐBSCL
Văn bản nghiên cứu:
- Luật Bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13
- Nghị định số 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật bảo hiểm tiền gửi
- Nghị định số 05/2010/NĐ-CP ngày 18/01/2010 của Chính phủ Quy định việc áp dụng Luật phá sản đối với các tổ chức tín dụng
- Thông tư 24/2014/TT-NHNN ngày 06/9/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Hướng dẫn một số nội dung về hoạt động bảo hiểm tiền gửi
- Quyết định số 24/2006/QĐ-NHNN ngày 06/06/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Về việc ban hành Quy chế cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động Quỹ tín dụng nhân dân; mở, chấm dứt hoạt động sở giao dịch, chi nhánh, văn phòng đại diện và phòng giao dịch, điểm giao dịch của Quỹ tín dụng nhân dân; chia, tách, hợp nhất, sáp nhập quỹ tín dụng nhân dân; thanh lý quỹ tín dụng nhân dân dưới sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước