Xác định hạn mức trả tiền bảo hiểm hợp lý sẽ tạo dựng niềm tin người gửi tiền khi gửi tiền vào TCTD; mặt khác tổ chức nhận tiền gửi sẽ giảm được áp lực về thanh khoản, giảm nguy cơ đổ vỡ khi hạn mức trả tiền bảo hiểm phù hợp.
Trường hợp hạn mức trả tiền bảo hiểm quá cao hoặc chi trả toàn bộ tiền gửi cho người gửi tiền sẽ tác động gián tiếp tới sự trông chờ ỷ lại, thờ ơ với việc đánh giá mức độ tín nhiệm của TCTD. Khi tổ chức nhận tiền gửi có các hành vi lạm dụng hay lợi dụng chính sách thì rủi ro đạo đức nghề nghiệp dễ dàng nảy sinh, không chú trọng tới việc nâng cao chất lượng hoạt động, chậm thay đổi, thiếu linh hoạt trong quản trị điều hành hoặc tìm cách trục lợi chính sách BHTG.
Trường hợp hạn mức trả tiền bảo hiểm thấp sẽ tạo nên sự chuyển dịch đầu tư của người gửi tiền, khách hàng rút tiền gửi tại TCTD sang đầu tư vào lĩnh vực khác có tính hiệu quả cao hơn, dẫn đến việc khó khăn thanh khoản tạm thời cho các TCTD.
Với những lý do trên đòi hỏi những người nghiên cứu xây dựng chính sách cần nghiên cứu khảo sát kỹ lưỡng để xác định hạn mức trả tiền bảo hiểm hợp lý cho từng thời kỳ.
Xu thế trên thế giới, hạn mức trả tiền bảo hiểm ngày càng tăng cao. Trong điều kiện bình thường một số nước đã thực hiện cam kết trả tiền bảo hiểm với tỷ lệ rất cao, thậm chí tối đa 100% cả gốc lẫn lãi, qua đó tạo được tâm lý yên tâm cho người gửi tiền, tránh được nguy cơ đổ vỡ của các TCTD gây ảnh hưởng xấu tới tình hình kinh tế xã hội.
Thực tế tại Việt Nam, từ khi BHTGVN ra đời và hoạt động, hạn mức trả tiền bảo hiểm tối đa cho một khách hàng tại một tổ chức tín dụng là 30 triệu đồng (bao gồm cả gốc lẫn lãi), sau hơn 5 năm (năm 2005) hạn mức trả tiền bảo hiểm tăng lên 50 triệu đồng bao gồm cả gốc lẫn lãi cho một khách hàng tại một TCTD bị đổ vỡ phá sản.
Trong khi nền kinh tế ngày càng phát triển, hạn mức trả tiền bảo hiểm vẫn không thay đổi sau gần 9 năm kể từ năm 2005 đến nay, , điều này khiến các TCTD lo ngại khách hàng sẽ rút tiền để chuyển hướng đầu tư sang lĩnh vực khác có lợi hơn; đặc biệt là các tổ chức tín dụng có quy mô nhỏ, địa bàn hoạt động bị hạn chế trong phạm vi phường, xã hoặc liên phường, xã (QTDND cơ sở) - đơn vị tự chủ, tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động. Mặt khác, tâm lý người gửi tiền không yên tâm, thiếu tin tưởng vào các TCTD hoạt động yếu kém hơn, có thể xảy ra sự rút tiền hàng loạt hoặc chuyển hướng đầu tư sang các lĩnh vực khác hoặc tìm đến các TCTD có quy mô hoạt động đảm bảo, hiệu quả; khách hàng mới và khách hàng lớn tìm đến các tổ chức tín dụng có độ an toàn cao để gửi nhằm đảm bảo tối đa khoản tiền vượt hạn mức trả tiền bảo hiểm. Thực tế, đã xảy ra trường hợp khi nền kinh tế gặp khó khăn, dòng tiền gửi dịch chuyển từ các TCTD có quy mô nhỏ, năng lực yếu kém sang các TCTD có quy mô lớn, uy tín, có tính minh bạch cao; các TCTD có quy mô nhỏ đứng trước nguy cơ đổ vỡ là tất yếu. Điều này đã được minh chứng kể từ khi BHTGVN đi vào hoạt động, đến nay toàn bộ số tiền chi trả cho người gửi tiền tại các TCTD đều xuất phát từ nguyên nhân là các QTDND cơ sở bị đổ vỡ. Như vậy, nếu hạn mức trả tiền bảo hiểm hợp lý sẽ tác động tới hành vi của người gửi tiền và các TCTD vận hành tốt theo quy luật thị trường.
Theo Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI), hạn mức trả tiền bảo hiểm nên bảo vệ toàn bộ từ 90% đến 95% số người gửi tiền. Tỷ lệ hạn mức GDP bình quân đầu người tối thiểu bằng 2 lần thu nhập bình quân đầu người và tương đương với mức trung bình của các quốc gia có cùng mức độ phát triển. Luật BHTG quy định hạn mức trả tiền bảo hiểm do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo đề nghị của NHNN trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, hạn mức trả tiền bảo hiểm 50 triệu đồng được áp dụng từ năm 2005 đến nay vẫn chưa được điều chỉnh. Giả định theo tính toán tại thời điểm 31/12/2013, hạn mức trả tiền bảo hiểm tăng lên dưới mức 200 triệu đồng sẽ không đạt được theo thông lệ quốc tế do không đạt ngưỡng về tỷ lệ bảo vệ toàn bộ người gửi tiền (90%) và nhỏ hơn 2 lần thu nhập bình quân đầu người. Nếu cuối năm 2014 hoặc sang năm 2015, hạn mức trả tiền bảo hiểm tăng ở mức 200 triệu đồng sẽ không đạt mức tối thiểu theo thông lệ quốc tế. Như vậy, ngay sau khi điều chỉnh hạn mức trả tiền bảo hiểm đã không phù hợp với thực tế và không theo kịp sự biến động của nền kinh tế, điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến các TCTD nội địa trong tiến trình hội nhập sâu rộng.
Nhằm khắc phục các tồn tại đã nêu trên, bài viếtxin đưa ra một số kiến nghị, đề xuất để các nhà nghiên cứu hoạch định chính sách tham khảo, tổng hợp xây dựng chính sách về hạn mức trả tiền bảo hiểm đảm bảo kịp thời, phù hợp với nền kinh tê hội nhập.
Thứ nhất, khi xây dựng chính sách BHTG, cần nghiên cứu kỹ các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, vĩ mô; thu nhập bình quân đầu người, khảo sát người gửi tiền nhằm đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, cụ thể là khuyến nghị của Hiệp hội BHTG quốc tế “bảo vệ toàn bộ từ 90% đến 95% số người gửi tiền”; đồng thời hạn mức BHTG bằng từ 2 đến 5 lần/ thu nhập bình quân đầu người tại thời điểm tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm, coi đây là thời điểm gốc làm căn cứ cho lần điều chỉnh tiếp theo.
Thứ hai, trên cơ sở hạn mức trả tiền BHTG gốc, hàng năm căn cứ vào tốc độ tăng trưởng GDP và các chỉ số lạm phát, trượt giá... để tính mức tăng thêm cộng vào tiền gốc và lần điều chỉnh tiếp theo lại tiếp tục lấy mức tăng hoặc giảm để cộng hoặc trừ số chi trả liền kề trước thời điểm điều chỉnh. Có như vậy mới đảm bảo được tính linh hoạt, kịp thời trong việc điều chỉnh hạn mức trả tiền bảo hiểm theo quy luật thị trường. Tốt nhất, việc điều chỉnh được thực hiện hàng năm hoặc tối thiểu từ 2 đến 3 năm một lần.
Thứ ba, trong những thời điểm nhạy cảm, BHTGVN cần tham mưu để NHNN trình Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh hạn mức trả tiền bảo hiểm phù hợp, đảm bảo tính an toàn, ổn định cho các TCTD cũng như củng cố niềm tin công chúng.
Tóm lại, việc xác định hạn mức trả tiền bảo hiểm hợp lý, linh hoạt và kịp thời sẽ đảm bảo an toàn, ổn định cho các tổ chức tín dụng, đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền. Hạn mức trả tiền bảo hiểm phù hợp sẽ làm tăng sức hấp dẫn của đồng tiền Việt Nam đối với người gửi tiền và cải thiện niềm tin của người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng.