Dự kiến sau khi được Chủ tịch nước ký lệnh công bố, Luật phá sản (sửa đổi) sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015. Luật phá sản (sửa đổi) bao gồm 9 Chương, 133 Điều, quy định về trình tự, thủ tục nộp đơn, thụ lý và thủ tục phá sản, xác định nghĩa vụ về tài sản và biện pháp bảo toàn tài sản trong quá trình giải quyết phá sản, thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, tuyên bố phá sản và thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Trong đó Luật dành riêng 1 Chương quy định về thủ tục phá sản TCTD (1).
Một ngân hàng hoạt động yếu kém tuyên bố phá sản có thể gây ra tâm lý hoang mang cho những người gửi tiền. Tâm lý này có thể lan rộng, dẫn đến hiện tượng rút tiền gửi ồ ạt tại các ngân hàng khác. Nhưng khi một ngân hàng tuyên bố phá sản, tổ chức BHTG đứng ra bảo đảm quyền lợi cho người gửi tiền, thực hiện chi trả kịp thời và nhanh gọn cho người gửi tiền tiết kiệm thì tâm lý người gửi tiền sẽ ổn định hơn. Người gửi tiền sẽ hiểu rõ quyền lợi mình được hưởng, do đó sẽ hạn chế khả năng lan truyền của sự hoang mang. Vai trò của chính sách BHTG sẽ được nâng cao, sức mạnh tuyên truyền sẽ được tăng lên. Dù ngân hàng có phá sản người gửi tiền vẫn được tổ chức BHTG chi trả số tiền tối đa theo hạn mức. Điều này sẽ giúp tâm lý người gửi tiền ổn định và hạn chế hiện tượng rút tiền hàng loạt.
Tuy nhiên, khi có ngân hàng phá sản, thách thức đến với tổ chức BHTG cũng không nhỏ.Đầu tiên phải nói đến là các văn bản pháp lý còn chồng chéo và chưa đồng bộ dẫn đến khó khăn cho tổ chức BHTG và các đơn vị có liên quan cũng như tổ chức tham gia BHTG trong quá trình triển khai việc chi trả bảo hiểm cho người dân. Khi một tổ chức tín dụng mất khả năng thanh toán, tổ chức tín dụng đấy sẽ để BHTG vào chi trả tiền gửi cho khách hàng. NHNN sẽ thực hiện trình tự thủ tục giải thể bắt buột theo quy định, thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng đấy. Theo quy định của Luật BHTG, việc hoàn thiện Hồ sơ đề nghị BHTGVN trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền do tổ chức tham gia BHTG thực hiện. Tuy nhiên có khả năng thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Ban kiểm soát đều bị khởi tố, do vậy không đủ tư cách để ký trên Hồ sơ đề nghị BHTGVN chi trả. Mặt khác, theo quy định của Luật các TCTD (Điều 35) khi tổ chức tham gia BHTG bị rút giấy phép hoạt động thì các thành viên này đương nhiên mất tư cách thành viên, do đó cũng không thể ký trên Hồ sơ đề nghị BHTGVN trả tiền Bảo hiểm (2). Đây đang là một vướng mắc gây khó khăn cho BHTGVN trong việc chi trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người dân.
Một thách thức nữa liên quan đến các văn bản pháp lý còn chồng chéo, chưa đồng bộ dẫn đến khó khăn cho tổ chức BHTG là công tác thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG khi bị phá sản. Ngay sau khi chi trả tiền bảo hiểm, công tác thanh lý tài sản của TCTD của các QTDND để thu hồi tiền trả cho các chủ nợ cũng lập tức được triển khai. Tuy vậy, công tác thanh lý là cả một quá trình rà soát, phân tích các khoản nợ, làm việc với các bên liên quan để tìm mọi biện pháp thích hợp nhằm thu hồi tiền cho các chủ nợ, trong đó có tiền chi trả bảo hiểm của BHTGVN. Quá trình này sẽ thường phát sinh các vấn đề phức tạp do quy định pháp luật về thanh lý tài sản chưa chặt chẽ, nhất là đối với TCTD là ngân hàng thương mại có cơ cấu phức tạp, khối lượng khách hàng lớn. Việc gia hạn hay kết thúc thanh lý một TCTD hiện cũng chưa có quy định tiêu chuẩn cụ thể. Điều kiện thiếu cụ thể này có thể dẫn đến thời hạn thanh lý được gia hạn nhiều lần, kết quả thu tiền thấp. Việc kết thúc thanh lý TCTD cũng cần văn bản quy định rõ về thủ tục, trách nhiệm của bên tham gia thanh lý (trường hợp chưa trả hết nợ).
Trong thực tế gửi tiền ngân hàng ở những thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh thường có số tiền gửi tiết kiệm lớn hơn 50 triệu đồng. Trong khi đó thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là những nơi tập trung nhiều ngân hàng thương mại nhất. Vì vậy, sức lan tỏa về tâm lý của khách hàng giữa các ngân hàng là rất lớn. Với những người dân thành phố, hạn mức chi trả là 50 triệu được đánh giá là một hạn mức thấp. Đây cũng là một thách thức đối với tổ chức BHTGVN. Đặc biệt vào thời điểm nhạy cảm khi có ngân hàng đổ vỡ, niềm tin của công chúng sẽ thể hiện theo 2 chiều hướng, nếu hạn mức chi trả cao và phù hợp, niềm tin của công chúng sẽ được ổn định, không ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng khác. Nếu hạn mức chi trả thấp, niềm tin công chúngvào hệ thống ngân hàng mờ nhạt hơn. Vì vậy, chính sách BHTG cần có những thay đổi, nâng cao hạn mức chi trả cho phù hợp hơn với mức độ lạm phát, thu nhập bình quân…
Hiện nay, theo quy định, thời gian chi trả BHTG là 60 ngày kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền (3). Đây cũng là một thách thức đối với tổ chức BHTG khi có ngân hàng phá sản vì số dư tiền gửi của ngân hàng thương mại lớn hơn rất nhiều so với Quỹ tín dụng. Tổ chức BHTG sẽ cần có những quy trình, công nghệ chi trả nhanh gọn, chính xác, đơn giản, đội ngũ cán bộ có nghiệp vụ cao để chi trả kịp thời cho người gửi tiền. Ngoài ra, tổ chức BHTG cũng cần rút ngắn thời gian chi trả hơn nữa. Ở nhiều nước phát triển trên thế giới thời gian chi trả tiền cho khách hàng gửi tiết kiệm thường thấp hơn 60 ngày. Ví dụ, Quỹ BHTG quốc gia Hungari chi trả bồi thường cho các khách hàng theo hạn mức trong thời hạn 20 ngày làm việc (4), còn Quỹ BHTG tại Anh chi trả cho khách hàng trong 1 tuần (5). Chi trả chậm sẽ là yếu tố ảnh hưởng bất lợi tới tâm lý người gửi tiền, nhất là với những người dân thành phố gửi tiền ở các ngân hàng thương mại, đây là những đối tượng cập nhật thông tin nhanh nên tính lan truyền cũng cao.
Trong giai đoạn kinh tế khó khăn, ngân hàng yếu kém có thể phá sản, nếu tổ chức BHTG vượt qua được những thách thức phải đối mặt và tận dụng cơ hội để củng cố niềm tin của dân chúng vào hệ thống ngân hàng thì vai trò của tổ chức BHTG sẽ được nâng lên tầm cao mới. Người dân sẽ hiểu rõ hơn quyền mình được hưởng và tin tưởng vào hệ thống ngân hàng. Hệ thống tài chính ngân hàng sẽ ổn định hơn. Đây chính là mục đích mà tổ chức BHTGVN luôn hướng tới.
Ths. Hồ Thanh Xuân
Phòng Nghiệp vụ 1 - Chi nhánh Hà Nội
Tài liệu tham khảo:
(1)http://dantri.com.vn/kinh-doanh/chinh-thuc-cho-pha-san-ngan-hang-yeu-kem-890448.htm3
(2)Luật các TCTD
(3)Điều 23, Mục 4, Luật BHTG
(4)http://div.gov.vn/Default.aspx?tabid=120&News=3422&CategoryID=3