Luật NHNN 2010 đã phân định rõ thẩm quyền quyết định chính sách tiền tệ của Việt Nam
So với Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997 và Luật NHNN được sửa đổi, bổ sung năm 2003, Luật NHNN đã làm rõ hơn vị trí của Ngân hàng Nhà nước là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, đồng thời xác định rõ các chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước với tư cách là Ngân hàng Trung ương, thực hiện các chức năng về quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, qua đó, khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa hai chức năng quan trọng của một Ngân hàng Trung ương: Thực thi chính sách tiền tệ và giám sát an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng
Cụ thể hóa được vai trò, vị trí của các cơ quan nhà nước trong việc quyết định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia trên cơ sở phù hợp Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ, trong đó thẩm quyền và tính tự chủ của Ngân hàng Nhà nước trong việc chủ động, linh hoạt sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ đã được xác định rõ ràng.
Xác định rõ được thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước trong việc giám sát an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng thông qua hai hoạt động giám sát và thanh tra, cùng với việc thành lập Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo sự quản lý chặt chẽ hơn đối với hệ thống tổ chức tín dụng.
Quy định rõ trách nhiệm giải trình, báo cáo của Ngân hàng Nhà nước trước Quốc hội, Chính phủ và công chúng. Đây là nội dung mới, quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng Trung ương nhằm minh bạch hóa, công khai hóa các quyết định trong điều hành của mình không những với cơ quan cấp trên mà còn với công chúng, thị trường.
Ngoài ra, Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 còn có những nội dung quan trọng khác đã được điều chỉnh, sửa đổi so với Luật hiện hành trên nhiều lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng Nhà nước, như: lãi suất, kế toán, quan hệ với Kho bạc Nhà nước, dự trữ ngoại hối, kiểm toán nội bộ. Đặc biệt về vấn đề quản lý nhà nước đối với Bảo hiểm tiền gửi được quy định trong Điều 4 theo đó NHNN thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.
Những thay đổi chủ yếu trong Luật các TCTD 2010:
Thay đổi quan trọng của Luật các TCTD 2010 là đã xác định lại phạm vi điều chỉnh trên cơ sở thay đổi khái niệm “hoạt động ngân hàng” và sử dụng khái niệm này làm tiêu chí để xác định thế nào là một TCTD, Luật 2010 quy định “hoạt động ngân hàng” là hoạt động kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ: (i) nhận tiền gửi; (ii) cấp tín dụng; (iii) cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản (khoản 12 Điều 4). Theo đó, tùy theo loại hình hoạt động, TCTD có thể thực hiện một hoặc một số hoặc cả ba hoạt động ngân hàng nêu trên khi được NHNN cấp Giấy phép thành lập vàhoạt động.
Phạm vi điều chỉnh của Luật 2010 đã bỏ các quy định về “các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng”, khắc phục bất cập cơ bản của Luật các TCTD 1997. Điều này có nghĩa là, để được cấp phép hoạt động ngân hàng, các tổ chức phải được thành lập như một TCTD. Những tổ chức không phải là một TCTD đang có hoạt động ngân hàng đều phải được tổ chức lại dưới hình thức là một TCTD hoặc phải chấm dứt hoạt động này.
Ranh giới phân biệt hoạt động giữa các tổ chức tín dụng là ngân hàng và các tổ chức tín dụng không phải là ngân hàng (tổ chức tín dụng phi ngân hàng) được làm rõ hơn, theo đó các tổ chức tín dụng phi ngân hàng không được phép nhận tiền gửi của dân cư (của các cá nhân), không được cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Quy định này phù hợp hơn với thông lệ áp dụng tại hầu hết các nước và một mặt giảm bớt được rủi ro cho hệ thống ngân hàng, mặt khác cho phép các tổ chức tín dụng phi ngân hàng được mở rộng phạm vi cung ứng các dịch vụ ngân hàng do các quy định về an toàn sẽ được áp dụng ở mức độ thấp hơn.
Đối với quản trị, điều hành, Luật các TCTD cũng quy định chi tiết, cụ thể, rõ ràng về tổ chức và công tác quản trị, điều hành, kiểm soát của từng loại hình tổ chức tín dụng. Mặc dù, các quy định về tổ chức, quản trị, điều hành đối với các TCTD được xây dựng trên cơ sở các quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã nhưng có rất nhiều điểm khác biệt so với các Luật này để phù hợp với đặc thù trong hoạt động của các TCTD, trên nguyên tắc là đưa ra các yêu cầu cao hơn về tổ chức, quản trị, điều hành TCTD so với các doanh nghiệp thông thường. Những nội dung có thể áp dụng được Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã thì không được quy định lại trong Luật các tổ chức tín dụng để tránh trùng lắp và bảo đảm để những quy định chung vẫn có thể được áp dụng khi có thay đổi trong Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã.
Đối với đảm bảo an toàn hệ thống, Luật các TCTD 2010 đã quy định về cấp phép đối với các tổ chức tín dụng theo hướng nâng cao các yêu cầu, tiêu chí, điều kiện để bảo đảm an toàn cho từng tổ chức tín dụng và cho cả hệ thống các tổ chức tín dụng và quy định theo hướng đại chúng hóa về sở hữu đối với các tổ chức tín dụng cổ phần để hạn chế việc chi phối, lạm dụng quyền lực do sở hữu tỷ lệ lớn cổ phần, Luật cũng bổ sung nhiều quy định nhằm nâng cao yêu cầu trong quản trị, điều hành, kiểm soát tổ chức tín dụng, đặc biệt là các quy định liên quan đến tư cách, năng lực, trình độ người quản lý, kiểm soát, điều hành tổ chức tín dụng, các quy định ràng buộc những người có liên quan với nhau về huyết thống hoặc tài chính, các quy định về thành viên độc lập Hội đồng quản trị.
Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đưa ra các quy định nhằm hạn chế các xung đột lợi ích thông qua các quan hệ cấp tín dụng, góp vốn, mua cổ phần chéo, góp vốn, mua cổ phần ngược giữa tổ chức tín dụng, công ty con, công ty liên kết, công ty kiểm soát.
Để bảo đảm phòng ngừa, ngăn chặn sớm sự đổ vỡ của các tổ chức tín dụng, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đã quy định bổ sung thêm 2 trường hợp mà một tổ chức tín dụng có thể bị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; đồng thời, quy định theo hướng trao cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thẩm quyền lớn hơn trong việc kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng như Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có quyền yêu cầu chủ sở hữu tăng vốn, xây dựng, thực hiện kế hoạch tái cơ cấu hoặc bắt buộc sáp nhập, hợp nhất, mua lại đối với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt...
Chương 1, Điều 10: Bảo vệ quyền lợi của khách hàng quy định: tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có trách nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật và công bố công khai việc tham gia tổ chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi tại trụ sở chính và chi nhánh. Việc tham gia bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng về bảo hiểm tiền gửi, công khai giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi tại các điểm giao dịch của các tổ chức tín dụng càng khẳng định rõ vai trò của bảo hiểm tiền gửi trong việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, giúp người gửi tiền yên tâm hơn khi gửi tiền vào các tổ chức tín dụng.
Luật BHTG cần được xây dựng như thế nào?
Mặc dù đã đi vào hoạt động được 10 năm, nhưng cho đến nay khung pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động BHTG mới ở mức Nghị định của Chính phủ, việc ban hành những chính sách về BHTG cách đây 5 năm hoặc 10 năm cho đến nay có nhiều những bất cập, hạn chế vì không theo kịp những diễn biến của thị trường tài chính, ảnh hưởng đến quyền lợic của người dân. Theo dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010, dự án Luật bảo hiểm tiền gửi sẽ được trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII.
Luật BHTG ra đời sẽ tạo hành lang pháp lý quan trọng để bảo vệ tốt hơn quyền lợi người gửi tiền, đảm bảo an toàn hệ thống tài chính, ngân hàng quốc gia.
Vấn đề cần được giải quyết trước mắt trong việc xây dựng Luật BHTG là cần nâng cao năng lực tài chính, nâng cao hạn mức chi trả, mở rộng phạm vi bảo hiểm, xác định rõ địa vị pháp lý của tổ chức BHTG đặc biệt Luật BHTG cần quy định rõ mối quan hệ giữa các cơ quan thực hiện quản lý Nhà nước về BHTG trong đó bao gồm Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động; các cơ quan trong mạng an toàn tài chính; mối quan hệ giữa BHTGVN và các tổ chức tham gia BHTG. Luật BHTG cũng cần được xây dựng đồng bộ với Luật NHNN sửa đổi, Luật các TCTD sửa đổi và pháp luật về phá sản nhằm tránh chồng chéo trong việc quản lý, phù hợp với thông lệ quốc tế.