Khái niệm về rủi ro đạo đức trong hoạt động BHTG
Có nhiều khái niệm khác nhau về rủi ro đạo đức, nhưng theo nhà kinh tế học Paul Krug man, rủi ro đạo đức trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng được hiểu là: “Trường hợp khi một bên đưa ra các quyết định liên quan tới mức độ chấp nhận rủi ro, trong khi bên kia phải chịu tổn thất nếu các quyết định đó thất bại”. Rủi ro đạo đức trong chính sách BHTG được hiểu là các cư xử thiếu đạo đức trong việc tiếp cận hoặc thực hiện các dịch vụ ngân hàng của các đối tượng thụ hưởng chính sách BHTG sẽ tác động tới tính hiệu quả hoạt động BHTG và gây ảnh hưởng tới an toàn hoạt động ngân hàng.
Chính sách công của hoạt động BHTG và một số biểu hiện rủi ro đạo đức
Bảo vệ người gửi tiền không đủ khả năng đánh giá rủi ro đổ vỡ của ngân hàng, những người khó có khả năng chịu tổn thất về vốn và góp phần đảm bảo tính ổn định của hệ thống tài chính quốc gia là mục tiêu chính sách công của hoạt động BHTG. Đối tượng thụ hưởng chính sách BHTG là toàn xã hội: người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm sẽ được nhận tiền bảo hiểm từ tổ chức BHTG khi ngân hàng họ gửi tiền bị đóng cửa và mất khả năng thanh toán, các ngân hàng hoạt động ổn định hơn nhờ nâng cao niềm tin của công chúng khi có hoạt động BHTG, các ngành kinh tế khác phát triển thuận lợi nhờ sự ổn định của hệ thống tài chính quốc gia. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi chính sách BHTG đã xuất hiện những biểu hiện cư xử thiếu đạo đức từ các đối tượng thụ hưởng chính sách BHTG gây ảnh hưởng tiêu cực cho hệ thống tài chính – ngân hàng, đó là:
Đối với người gửi tiền được BHTG: cư xử thiếu đạo đức xảy ra khi họ tin tưởng tiền gửi của mình được bảo hiểm, vì vậy sẽ ít quan tâm đến việc thu thập thông tin để phân tích, đánh giá chất lượng của các tổ chức tín dụng. Trong trường hợp nàyngười gửi tiền thường chỉ quan tâm đến lãi suất nên, dẫn đến tình trạng ngân hàng yếu kém sẽ đưa ra lãi suất cao nhằm mục đích thu hút được nhiều vốn để đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro cao hơn. Từ đó dẫn tới rủi ro đối với tiền gửi của người gửi tiền sẽ cao hơn.
Đối với tổ chức tham gia BHTG: cư xử thiếu đạo đức phát sinh khi các tổ chức này cho rằng vì đã có chính sách BHTG nên họ có thể chấp nhận rủi ro ở mức cao hơn, dẫn tới gặp khó khăn về thanh khoản, thậm chí có thể gây ra đổ vỡ làm ảnh hưởng tới an toàn hệ thống.
Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân có vay tiền ngân hàng cũng gián tiếp bị từ những biểu hiện cư xử thiếu đạo đức.
Giảm thiểu rủi ro đạo đức là nội dung được các nhà hoạch định chính sách chú trọng khi xây dựng chính sách BHTG, phù hợp với nguyên tắc số 2 “Giảm thiểu rủi ro đạo đức” trong Bộ nguyên tắc cơ bản của IADI phát triển hệ thống BHTG hiệu quả. Tuy nhiên, trong quá trình hình thành và phát triển không tránh khỏi những biểu hiện cư xử thiếu đạo đức xuất hiện trong hoạt động BHTG của mỗi quốc gia.
Ở Mỹ
Mỹ là quốc gia đầu tiên trên thế giới khởi xướng về hoạt động BHTG. Mô hình giảm thiểu rủi ro của BHTG Mỹ được cho là tiên tiến và có nhiều thành công. Tuy nhiên, vẫn có những biểu hiện cư xử thiếu đạo đức xuất hiện khi triển khai thực hiện chính sách BHTG mà biểu hiện rõ nét nhất là khi xác định hạn mức trả tiền bảo hiểm cao hơn mức lạm phát thực tế.
Trong cuộc khủng hoảng cho vay và tiết kiệm ở Mỹ những năm 80, Mỹ tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm từ 40.000USD lên 100.000 USD/một người gửi tiền, trong khi đó theo ông Sprague, cựu Chủ tịch của BHTG liên bang Mỹ nhận định, trong thời gian từ năm 1972 đến năm 1980, yếu tố tăng lạm pháp ở Mỹ đặt ra yêu cầu mức trả tiền bảo hiểm chỉ cần tăng từ 40.000USD lên đến 60.200USD. Như vậy, với việc xác định hạn mức trả tiền bảo hiểm cao hơn mức lạm phát 1,6 lần, số ngân hàng đóng cửa tăng lên đột ngột, đỉnh cao là năm 1988 có 280 ngân hàng đóng cửa, nhiều nhất kể từ khi có hoạt động BHTG Liên Bang Mỹ đến nay. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định biểu hiện cư xử thiếu đạo đức do chính sách BHTG hữu hảo gây nên là một trong các nguyên nhân của khủng hoảng cho vay và tiết kiệm ở Mỹ những năm 80 .
Ở Việt Nam
Chính sách BHTG của Việt Nam ra đời vào năm 1999 sau khi hàng loạt các quỹ tín dụng nhân dân bị đổ vỡ vào năm 1989-1990, tổ chức BHTG được coi là công cụ chính sách công để bảo vệ người gửi tiền, góp phần thúc đẩy ổn định hoạt động ngân hàng. Qua gần 15 năm hoạt động BHTG tại Việt Nam đã bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi những biểu hiện được coi là cư xử thiếu đạo đức đã xảyra. Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, vào những năm 2010-2011, khi huy động vốn của một số ngân hàng gặp khó khăn, các ngân hàng đồng loạt nâng lãi suất tiền gửi huy động lên kịch trần, cá biệt có một số ngân hàng ngoài lãi suất công khai cộng thêm lãi suất “đi đêm”. Khi Ngân hàng Nhà nước phát đi thông điệp không để xảy ra đổ vỡ ở bất kỳ ngân hàng nào trong giai đoạn này và người dân tin tưởng vào chính sách BHTG, biểu hiện cư xử đạo đức đã xuất hiện rõ nét. Vấn đề quan tâm nhất của người gửi tiền chỉ nhằm vào ngân hàng có lãi suất tiền gửi cao để gửi tiền. Từ đó dẫn đến dòng tiền luân chuyển từ ngân hàng có lãi suất thấp sang ngân hàng có lãi suất cao. Như vậy, biểu hiện cư xử thiếu đạo đức không những tác động đến tính ổn định của ngân hàng mà ảnh hưởng đến quy luật điều tiết quan hệ cung cầu về tiền gửi.
Biểu hiện cư xử thiếu đạo đức cũng được biểu hiện ở một số ngân hàng có huy động với lãi suất cao, buộc họ phải đầu tư mạo hiểm, cho vay lĩnh vực có rủi ro cao để thu lợi nhuận. Nhưng, lĩnh vực này thường có mức độ rủi ro cao dẫn đến khó thu hồi nợ và phát sinh nợ xấu vượt mức khuyến cáo an toàn, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế.
Biểu hiện cư xử thiếu đạo đức của một số cá nhân là cán bộ của quỹ tín dụng nhân dân đã vi phạm các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng, gây thất thoát tài sản dẫn đến quỹ buộc phải giải thể, phá sản và để bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền, BHTG Việt Nam đã tiến hành công tác chi trả.
Để giảm thiểu rủi ro đạo đức, một số khía cạnh sau đây cần được quan tâm hơn trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam:
1. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát an toàn của tổ chức BHTG nhằm phát hiện kịp thời các vi phạm và đưa ra các khuyến nghị để các tổ chức tham gia BHTG tuân thủ đúng các quy định về BHTG và an toàn trong hoạt động ngân hàng tránh rủi ro phát sinh.
2. Các cơ quan chức năng cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn Luật BHTG trong đó có quy định cụ thể về việc xử lý khi có biểu hiện trục lợi bảo hiểm của các đối tượng thụ hưởng chính sách BHTG.
3. Cần sớm xác định hạn mức trả tiền bảo hiểm phù hợp trong từng thời kỳ, và áp dụng mức phí BHTG phân biệt theo mức độ rủi ro nhằm đảm bảo quyền lợi của đa số người gửi tiền, đặc biệt là những người gửi tiền có thu nhập thấp, góp phần tích cực cho ổn định và củng cố hoạt động ngân hàng.
4. Các cơ quan chức năng cần có giải pháp phù hợp để tăng cường công tác quản trị doanh nghiệp, quản lý rủi ro đối với hoạt động ngân hàng để nâng cao chất lượng hoạt động và sự an toàn của mỗi tổ chức nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung.
5. Tích cực đẩy mạnh công tác truyền thông để công chúng nắm được đầy đủ về hoạt động tài chính ngân hàng cũng như hiểu biết đúng về chính sách BHTG.
Việc xác định rõ biểu hiện rủi ro để có biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu đến mức thấp nhất rủi ro đạo đức trong việc xây dựng chính sách và hoạt động BHTG là vấn đề được đặt ra đối với mỗi quốc gia, để hoạt động BHTG thực sự phát huy tối đa mục tiêu chính sách công.
Nguyễn Thị Loan- CN BHTG Hà Nội
Tài liệu tham khảo:
- TS. Nguyễn Thị Kim Oanh (2004), Nguyên lý, thực tiễn và định hướng.
- Bộ Nguyên tắc cơ bản của IADI phát triển hệ thống BHTG hiệu quả;
- Các báo cáo kết quả hoạt động năm của BHTGVN;
- Một số thông tin tham khảo trong các bài viết trên các website.