Sự cộng hưởng giữa tác động của cơn lốc suy thoái kinh tế toàn cầu và tác động của những khó khăn tích lũy từ những năm trước đó làm nền kinh tế Việt Nam đang có những dấu hiệu suy thoái thể hiện qua các chỉ tiêu kinh tế như: kinh tế tăng trưởng với tốc độ chậm hơn, tỷ lệ thất nghiệp ngày một gia tăng, hiện tượng thiểu phát xảy ra ngay sau khi làn sóng lạm phát cao kết thúc.
Gần đây Chính phủ Việt Nam cũng đã công bố ý tưởng đưa ra gói kích cầu trị giá 1tỷ đô la Mỹ và quy mô tổng thể cả gói này có thể lên tới 6 tỷ USD. Cho đến thời điểm này ở Việt Nam đang tồn tại nhiều tranh luận về gói giải pháp này xoay quanh các câu hỏi như: Việc đưa ra gói giải pháp kích cầu là theo trào lưu chung hay thật sự cần thiết cho nền kinh tế Việt Nam hiện nay? Trong trường hợp gói giải pháp này được thực hiện thì những mục tiêu nào sẽ được ưu tiên? Các tác động tiềm tàng của gói giải pháp này (trong dài hạn) lên nền kinh tế Việt Nam?
Do nguồn lực hạn chế, nên ở đây, người viết chỉ nêu ra một số lập luận và dẫn chứng để thảo luận nhằm làm sáng tỏ câu hỏi thứ nhất, các câu hỏi tiếp theo sẽ được trả lời trong những những bài viết khác.
1. Các gói giải pháp kích cầu của một vài quốc gia trên thế giới.
Gói giải pháp tài chính được đưa ra trong bối cảnh hàng loạt tập đoàn lớn trong ngành tài chính cần tới sự trợ giúp của Chính phủ hoặc thậm chí tuyên bố phá sản. Tình hình này diễn ra không chỉ ở Mỹ mà còn ở nhiều nước Châu Âu khi các công ty buộc phải phá sản, quốc hữu hóa hoặc sáp nhập.
1.1. Gói giải pháp tài chính ở Mỹ
Số liệu thống kê trong quý III cho thấy dấu hiệu sụt giảm bất thường của kinh tế Mỹ như: tốc độ tăng GDP của Mỹ trong quý III tăng trưởng âm 0,5% sau khi tăng 2,8% trong quý II. Đồng thời, chỉ số CPI giảm 4,1%, mức giảm mạnh nhất từ quý II năm 2007. Bên cạnh đó, chi tiêu tiêu dùng giảm mạnh cho thấy những khó khăn xuất hiện trong đại bộ phận dân cư Mỹ đi kèm với thất nghiệp gia tăng.
CHỈ SỐ KINH TẾ CHÍNH CỦA MỸ
Nếu như trước đây, những ngân hàng như Washington Mutual, Wachovia và nhiều tập đoàn lớn như AIG, Merrill Lynch được coi là quá lớn để sụp đổ (too big to fail) thì ngày nay nguy cơ phá sản đã đặt ra. Chính phủ Mỹ phải đối mặt với một vấn đề các tổ chức trên quá lớn và quy mô hoạt động quá phức tạp để có thể giải quyết một cách êm thấm (too big to solve). Đặc biệt, ngân hàng đầu tư Lehman Brothers sụp đổ hôm 15/9 gây tác động xấu đến tài chính toàn cầu khiến thị trường chứng khoán ngày 16/9 tại cả Mỹ và Châu Âu sụt giảm nghiêm trọng. Ngày này được đánh dấu là ngày tồi tệ nhất đối với các thị trường chứng khoán kể từ sau sự kiện 11/09/2001. Các chỉ số chính sụt trên 3% như Dow Jones (rớt 3,3%), FTSE (3,37%), CAC-40 (Pháp, giảm 4,47%), DAX (Đức, giảm 3,18%). Nếu tiếp tục để những sự kiện trên xảy ra thì nền kinh tế Mỹ nhanh chóng sụp đổ và gói giải pháp tài chính được đề cập để ngăn chặn cuộc đại suy thoái này .
Gói giải pháp tài chính được đưa ra hồi đầu tháng 10, trị giá 700 tỷ USD (khoảng 5%GDP). Nội dung chính của gói giải pháp này gồm: hỗ trợ tài chính cho các ngân hàng, tăng trần bảo hiểm tiền gửi, bảo vệ người nộp thuế, cắt giảm thuế, quy định kế toán mới, bảo hiểm các tài sản xấu của doanh nghiệp, thành lập Ủy ban Ổn định tài chính.
1.2. Gói giải pháp của Anh và một số nước Châu Âu
Gói giải pháp của Anh được đưa ra ngày 8/10/2008 sau khi gói cứu trợ của Mỹ được thông qua và sau 48 giờ các chỉ số chứng khoán hàng đầu của Anh, FTSE100, ghi nhận sự sụt giảm lớn nhất từ năm 1987. Trong đó, một số ngân hàng hàng đầu của Anh đứng trước nguy cơ phá sản và buộc phải quốc hữu hóa như ngân hàng Northern Rock (cuối 2007), ngân hàng tư nhân hàng đầu Anh quốc Branford&Bingley cuối tháng 9 và 2 ngân hàng gặp khó khăn Royal Bank of Scotland và HBOS và Lloyds TSB. Những chỉ số kinh tế của Anh cũng giảm nghiêm trọng trong quý III như GDP giảm 0,3% đã khiến nước này thông qua gói cứu trợ nhanh chóng lên tới 500 tỷ bảng (khoảng 850 tỷ USD, chiếm 30%GDP), cao hơn gói cứu trợ của của Mỹ. Gói giải pháp này chủ yếu dành cho các ngân hàng vay vốn ngắn hạn thông qua các chương trình cho vay đặc biệt, cho ngân hàng vay để tăng vốn và cho vay liên ngân hàng.
Cùng khoảng thời gian này, Đức cũng chịu sự tuột dốc của thị trường chứng khoán, các chỉ số kinh tế vĩ mô giảm mạnh so với thời gian trước đó. GDP giảm liên tiếp trong 2 quý II và III với mức giảm lần lượt 0,4% và 0,5% tuy có tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Một trong những ngân hàng lớn nhất Châu Âu là Hypo Real Estate khiến nước Đức chi 70 tỷ USD cứu vãn ngân hàng này làm vấn đề niềm tin của các nhà đầu tư xuống mức thấp nhất kể từ cuộc Đại suy thoái 1933. Đức đã đưa ra gói kích thích kinh tế trị giá 480 tỷ Euro (khoảng 654 tỷ USD, chiếm 20%GDP) để cứu ngành tài chính ngân hàng nước này thoát khỏi sụp đổ ngày 14/10 sau khi các nhà lãnh đạo Châu Âu nhất trí về các biện pháp tiếp cận chung ngày 12/10/2008. Gói giải pháp này phần lớn dành cho các ngân hàng đang gặp khó khăn và bảo lãnh hoạt động cho vay liên ngân hàng.
1.3. Các quốc gia Châu Á
Tại cùng thời điểm này, Trung Quốc đã có những động thái nhằm bảo vệ nền kinh tế của họ tránh rơi vào vòng xoáy suy thoái. Chính quyền Bắc Kinh đã chi tiêu gần 3000 tỷ nhân dân tệ vào đầu tư cơ sở hạ tầng và giải quyết hậu quả xã hội của chính sách phát triển nóng trong thời gian vừa qua. Ngoài ra họ cũng chi tiêu một khoản 1000 tỷ nhân dân tệ cho công tác khắc phục hậu quả thiên tai trong năm vừa qua. Đây được xem là một động thái nhằm lấy lại niềm tin của người dân vào chính quyền và tạo nền tảng để phát triển bền vững ngay sau khi kinh tế phục hồi.
Một loạt các nước khác ở Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malayxia, Đài Loan cũng đưa ra những gói giải pháp tài chính kích thích kinh tế của mình trong hai tháng qua khi hầu hết trong số này đã rơi vào suy thoái với tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
2. Sự cần thiết phải có gói giải pháp kích cầu ở Việt Nam
Trước diễn biến xấu đi nhanh chóng của kinh tế các nước mà dự báo thời điểm giảm phát nặng nề nhất sẽ rơi vào nửa đầu năm 2009 và sẽ chỉ phục hồi dần vào nửa cuối 2009 như Mỹ, Đức, Anh, Trung quốc, Nhật bản,... Do vậy, kinh tế Việt nam cũng khó tăng trưởng cao trong năm 2009 khi chịu ảnh hưởng rất lớn từ những nền kinh tế này, cả về xuất khẩu và đầu tư.
2.1. Những dấu hiệu của một nền kinh tế suy giảm tăng trưởng
Trong nửa đầu năm nay, các dấu hiệu suy giảm kinh tế của Việt Nam đã rất rõ ràng. Đa số các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Việt nam giảm đáng kể so với đầu năm.
Tăng trưởng kinh tế quý IV Việt Nam có dấu hiệu giảm phát khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm liên tục trong 3 tháng qua kể từ tháng 10, lần lượt ở mức 0,18%, 0,76% và 0,68% mặc dù cả năm con số này tăng xấp xỉ 20% còn GDP tăng chậm và khó có thể đạt mục tiêu 7% đề ra.
Giá trị xuất khẩu ròng giảm do cầu tiêu dùng của thế giới giảm mạnh. Việt Nam xuất khẩu sản phẩm thô như dầu mỏ, cao su, cà phê và gạo là chủ yếu. Trên thế giới hiện nay giá các mặt hàng này giảm mạnh làm nguồn thu từ xuất khẩu giảm theo. Xuất khẩu ròng cũng là một thành phần của tổng cầu nên sự sụt giảm này kéo theo tổng cầu sụt giảm.
Nhập khẩu đã được hạn chế nhưng vẫn ở mức 25%GDP gây ảnh hưởng xấu đến cán cân vãng lai. Hơn nữa hiện nay cán cân vãng lai của Việt nam chiếm gần 10%GDP, sẽ gây khó khăn cho việc huy động vốn tài trợ từ nước ngoài trong tình cảnh các nước cũng đang gặp khó khăn lớn về tài chính.
Đầu tư nước ngoài sụt giảm: nguồn vốn đăng ký lớn nhưng lượng vốn vào thực tế chiếm tỷ lệ thấp hơn nhiều so với những năm trước nên lượng ngoại tệ thu hút vào không nhiều, chỉ khoảng 17% so với trung bình giai đoạn trước 38%. Hơn thế nữa nguồn thu ngoại tệ từ khách du lịch ngoại quốc và lượng kiều hối chuyển về nước cũng suy giảm theo tình hình chung của thế giới.
Thị trường chứng khoán liên tục tạo đáy mới và xuống mức thấp nhất trong hơn 2 năm qua. Vn-Index giảm gần 3 lần so với giá trị hồi đầu năm và thị trường những tháng cuối năm cho thấy xu hướng nhà đầu tư nước ngoài bán ròng cổ phiếu. Điều này cho thấy thị trường Việt Nam không còn hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài nữa, đây là một điều khó khăn cho nhà nước khi nhu cầu đầu tư nội địa còn cần rất nhiều vốn.
Như vậy do tình hình chung trên toàn thế giới nên kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nếu không có những chính sách thích hợp thì Việt Nam khó có thể đảm bảo đứng vững và có cơ hội phát triển khi kinh tế thế giới có dấu hiệu phục hồi.
2.2. Sự cần thiết của gói giải pháp tài chính kích thích kinh tế của Việt Nam
Như đã phân tích ở trên, hiện nay Việt Nam đã có dấu hiệu đình trệ kinh tế, thu nhập thấp và tỷ lệ thất nghiệp đang gia tăng. Những dấu hiệu này hoàn toàn phù hợp với những giả định của mô hình Keynes. Hơn thế nữa, nền kinh tế có những dấu hiệu tương tự như những nước đã thực hiện gói giải pháp. Như vậy việc sử dụng một gói giải pháp kích cầu là cần thiết và hoàn toàn có sơ sở.
Thực tế, Chính phủ Việt Nam không thể kỳ vọng vào sự tài trợ của Chính phủ nước ngoài. Bản thân các quốc gia đối tác truyền thống củaViệt Nam cũng đang gặp khó khăn tương tự khi đối mặt với sự suy thoái kinh tế toàn cầu. Do đó chính phủ cần có một giải pháp tự thân để “tự cứu mình”.
Mặt khác đã có nhiều nước sử dụng giải pháp này nên Việt Nam là nước đi sau hoàn toàn có thể áp dụng được những điểm mạnh và khắc phục tối đa những hạn chế khi áp dụng gói giải pháp kích cầu. Tận dụng lợi thế của người đi sau để hạn chế rủi ro chính là điểm mạnh của phương án này.
Trước đây, Việt Nam đã đưa ra thực hiện một số biện pháp đơn lẻ như hạ lãi suất cơ bản, nới rộng biên độ tỷ giá nhằm kích cầu kinh tế, nhưng những biện pháp này là chưa đủ khi những chỉ số kinh tế vĩ mô vẫn cho thấy nền kinh tế đang xuống dốc.
Do vậy, việc thực hiện một gói giải pháp đồng bộ là cần thiết nhằm nâng cao lòng tin của người dân vào chính sách của Chính phủ trong nỗ lực chống suy giảm kinh tế toàn cầu. Đặc biệt, gói giải pháp liên quan đến mục tiêu an sinh xã hội, kích cầu tiêu dùng sẽ tạo lợi ích cho các tác nhân tham gia nền kinh tế: Chính phủ, Người dân, Doanh nghiệp và Trung gian tài chính.
2.3. Những khuyến nghị khi thực hiện gói giải pháp tài chính
Tuỳ nền kinh tế mà chính phủ có những mục tiêu và phương thức khác nhau để kích cầu. Đối với Mỹ, Anh và một số nước châu Âu thi gói giải pháp chủ yếu là để cứu thi trường tài chính. Còn đối với Trung Quốc thì gói giải pháp này lại hướng vào cơ sở hạ tầng nhằm nuôi dưỡng niềm tin của dân chúng. Đối với Việt Nam, để đạt được mục tiêu ưu tiên trong gói giải pháp là ngăn chặn suy giảm kinh tế trong hai năm 2009-2010, gói giải pháp kích thích kinh tế cần tập trung hỗ trợ nhanh chóng cho 3 khu vực dễ bị tổn thương: sản xuất, thương mại – dịch vụ, tài chính ngân hàng.
Theo mô hình của Keynes, kinh tế suy giảm chủ yếu do tổng cầu sụt giảm, mà hai yếu tố chính của tổng cầu là vốn đầu tư và khả năng tiêu thụ sản phẩm gồm cả trong và ngoài nước. Hai yếu tố này liên quan trực tiếp với khu vực sản xuất. Với khu vực này, do các doanh nghiệp khó khăn trong khâu tiếp cận vốn ngân hàng, cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của nước ngoài nên cần thiết triển khai Quỹ bảo lãnh tín dụng và Quỹ hỗ trợ xuất khẩu cho doanh nghiệp. Những biện pháp có thể dễ dàng thực hiện trong thời gian ngắn tới đây gồm 5 biện pháp: i) cấp tài chính trực tiếp; ii) bảo lãnh cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ngân hàng; iii) tài trợ trước xuất khẩu; iv) bảo lãnh cho vay sản xuất hàng xuất khẩu; v) tài trợ một phần lãi suất vay vốn. Trong đó, nhóm đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa cần được hỗ trợ đặc biệt vì đây là nhóm sẽ chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ khủng hoảng thị trường tài chính tiền tệ (chiếm tới 95% trong tổng số 350 nghìn doanh nghiệp hiện nay). Do vậy, việc giảm thuế, hỗ trợ lãi suất, xây dựng quỹ đào tạo cho nhóm doanh nghiệp này cần được thực hiện càng sớm càng tốt nhằm giữ ổn định kinh tế, tạo công ăn việc làm.
Với khu vực thương mại-dịch vụ, thực hiện các biện pháp kích cầu tiêu dùng có thể chia thành 4 hướng giải pháp như: i) trợ giá một số mặt hàng nhu yếu phẩm thiết yếu đối với nhóm đối tượng hoàn cảnh khó khăn, người đã nghỉ hưu; ii) hỗ trợ cho nhóm đối tượng làm việc trong môi trường độc hại, vùng sâu vùng xa, khu vực chậm phát triển; iii) kích cầu tiêu dùng thông qua đẩy nhanh tiến độ nâng lương, phụ cấp; iv) cấp phiếu mua hàng có điều kiện cho các sản phẩm sản xuất trong nước thông qua đó đảm bảo an sinh xã hội. Bên cạnh đó, kích cầu thông qua đầu tư cải tạo và đẩy nhanh tiến độ mở rộng xây dựng mạng lưới giao thông, hạ tầng sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong nội bộ quốc gia (kích thích các hoạt động liên quan như cảng biển, đường cao tốc, cầu đường) và cải thiện môi trường đầu tư.
Với khu vực tài chính ngân hàng, cuối năm nay, nợ xấu của các ngân hàng có xu hướng cao hơn năm ngoái, do vậy việc nghiên cứu và triển khai một số biện pháp: thiết lập Quỹ tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng rất quan trọng nhằm giữ hoạt động an toàn và lành mạnh góp phần duy trì niềm tin của người dân vào hệ thống tài chính. Ngoài ra, cần hỗ trợ thị trường chứng khoán (quốc hữu hóa có thời hạn một số công ty tư nhân có tiềm năng phát triển, hỗ trợ thanh khoản cho các khoản cầm cố bằng chứng khoán, nâng hạn mức giới hạn tối đa nắm giữ cổ phiếu của đối tác nước ngoài). Cuối cùng, trong thời kỳ khủng hoảng, lòng tin giảm sút sẽ khiến người gửi tiền dễ bị tác động trước những biến động của nền kinh tế và rút tiền khỏi hệ thống ngân hàng. Việc tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi là biện pháp ngăn ngừa hiệu quả tình trạng này.
Việc tính toán tổng thể chi phí cho gói giải pháp cần dựa trên những mục tiêu ưu tiên của từng nhóm giải pháp và các biện pháp cụ thể để đưa ra những kịch bản khác nhau căn cứ vào sự đánh đổi các nguồn lực giữa các khu vực và kết quả cần đạt được. Tổng thể gói giải pháp cần được cân nhắc kỹ ở mức chi phí hợp lý vì với gói tổng thể có thể lên tới 6 tỷ USD (8%GDP năm 2007) sẽ gây áp lực nặng cán cân thanh toán của Việt nam.
Tuy nhiên, trong thời điểm nền kinh tế vẫn đang trên đà xuống dốc thì việc phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan có thẩm quyền và những quyết định kịp thời về cơ chế phân quyền cũng như trách nhiệm của các cơ quan Bộ ngành, cơ quan phối hợp thực thi cần được tiến hành nhanh chóng nhằm đem lại hiệu quả tức thì cho hai năm 2009 và 2010.
Phòng NCTH&HTQT