Hạn mức trả tiền bảo hiểm được xây dựng như thế nào?
Hạn mức trả tiền bảo hiểm là số tiền bảo hiểm tối đa mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả cho tất cả các khoản tiền gửi của một người được bảo hiểm tiền gửi tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
Theo thông lệ quốc tế, nguyên tắc xác định hạn mức trả tiền bảo hiểm cần bảo đảm đồng thời hai mục tiêu: đủ cao để duy trì niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng, khuyến khích người gửi tiền gửi vào ngân hàng; đủ thấp để kiểm soát và điều tiết rủi ro đạo đức, tránh tình trạng mạo hiểm trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Việc xem xét hạn mức trả tiền bảo hiểm cần tính tới các yếu tố, bao gồm: thu nhập GDP bình quân đầu người và các yếu tố có liên quan như lạm phát, lòng tin của người dân vào hệ thống tài chính; tỷ lệ % người gửi tiền được bảo vệ toàn bộ tính trên tổng số người gửi tiền; mức độ rủi ro của hệ thống ngân hàng và tổng thể nền kinh tế.
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI), trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính, hạn mức trả tiền bảo hiểm trung bình toàn thế giới tương đương khoảng 2,5 lần GDP bình quân đầu người. Tỷ lệ trung bình của khu vực châu Á là 3 lần. Các quốc gia với hệ thống ngân hàng hoạt động rủi ro cao có xu hướng duy trì hạn mức chi trả cao hơn nhằm bảo vệ tốt nhất người gửi tiền.
Hạn mức chi trả/GDP bình quân đầu người
Nhiều nước tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm
Thay đổi hạn mức trả tiền bảo hiểm là một phần không thể thiếu trong tổng thể giải pháp chính sách BHTG nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người gửi tiền, tạo tâm lý yên tâm, qua đó hạn chế tình trạng rút tiền hàng loạt khi có những diễn biến xấu của hệ thống tài chính.
Đặc biệt, trong giai đoạn khủng hoảng tài chính bắt đầu từ năm 2008 vừa qua, có 48 quốc gia và vùng lãnh thổ thực hiện một số giải pháp mới trong chính sách hạn mức trả tiền bảo hiểm. Trong đó, có 19 nước áp dụng hình thức bảo lãnh toàn bộ đối với khách hàng gửi tiền, 23 nước tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm không xác định thời hạn kết thúc (chính sách hạn mức mới dài hạn) và 6 nước tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm tạm thời. Đối với riêng khu vực châu Á, các quốc gia tại châu lục này duy trì mức độ bảo vệ cao từ 5 - 80 lần GDP bình quân đầu người.
Tại Đông Nam Á, hầu hết các quốc gia đã nâng hạn mức BHTG hoặc chuyển sang chi trả không giới hạn. Trong số các quốc gia có hệ thống BHTG chính thức và công khai tại Đông Nam Á, chỉ có Lào và Việt Nam không tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua. Sau khủng hoảng, các quốc gia quay trở lại cơ chế bảo hiểm có hạn mức. Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia đều duy trì hạn mức cao hơn giai đoạn trước khủng hoảng tài chính.
Hạn mức trả tiền bảo hiểm ở Việt Nam đã lạc hậu
Theo quy định của Nghị định số 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 hướng dẫn chi tiết và thi hành Luật BHTG, các quy định về hạn mức trả tiền bảo hiểm tại Nghị định 109/2005/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 về BHTG tiếp tục có hiệu lực thi hành cho đến khi Thủ tướng Chính phủ ban hành các quy định mới về hạn mức trả tiền bảo hiểm.
Theo đó, số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi (gồm cả gốc và lãi) của một người gửi tiền (một cá nhân hoặc người đại diện theo pháp luật) tại một tổ chức tham gia BHTG thuộc đối tượng quy định, tối đa là 50 (năm mươi) triệu đồng tiếp tục được duy trì. Hạn mức này được áp dụng từ năm 2005 đến nay.
Nhiều ý kiến cho rằng, với mức lạm phát bình quân trong 6 năm khoảng 18%/năm thì hạn mức BHTG 50 triệu đồng đã duy trì gần 10 năm, đến nay đã không còn phù hợp với thực tế. Vào thời điểm năm 2005, khi Việt Nam bắt đầu áp dụng hạn mức trả tiền bảo hiểm 50 triệu đồng, hạn mức trên tương đương gần 5 lần GDP bình quân đầu người và bảo vệ toàn bộ tài khoản tiền gửi của khoảng 80% người gửi tiền. Đây là mức phù hợp so với thông lệ quốc tế (vào thời điểm năm 2005).
Tuy nhiên, quy định hiện hành về hạn mức BHTG tối đa 50 triệu đồng đã lạc hậu khi tỷ lệ lạm phát đã tăng gấp đôi từ năm 2005 đến năm 2011, thu nhập quốc dân tính theo đầu người tăng gấp 2,5 lần so với năm 2005.
Thiết nghĩ, việc sớm điều chỉnh hạn mức trả tiền bảo hiểm phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam không những bảo vệ tốt hơn quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, tăng niềm tin của người dân vào hệ thống tín dụng - ngân hàng mà còn khuyến khích người dân gửi tiền nhàn rỗi, giúp các tổ chức tín dụng huy động được tối đa nguồn lực cho đầu tư phát triển và hạn chế tình trạng tín dụng “đen”.
Tài liệu tham khảo:
- Luật BHTG năm 2012;
- Nghị định 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật BHTG;
- “Một số vấn đề về bảo hiểm tiền gửi” – tài liệu nghiên cứu của Vụ Công tác đại biểu - Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Một số tài liệu khác.