Nguồn vốn quỹ do tổ chức tham gia BHTG tự đóng góp đảm bảo hạn chế hoặc không phải sử dụng ngân sách nhà nước trong việc xử lý tổ chức tham gia BHTG gặp vấn đề, từ đó giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Hệ thống phí BHTG “cào bằng” đối với tất cả các tổ chức tín dụng”cào bằng” với tất cả các tổ chức tín dụngTheo quy định hiện hànhquy định hiện hành, phí BHTG là khoản tiền tổ chức tham gia BHTG có nghĩa vụ nộp cho tổ chức BHTGđể được bảo hiểm cho tiền gửi của khách hàng. Phí BHTG được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tham gia BHTG. Phương thức thu phí BHTG hiện nay đang theo cách tính đồng hạng với tỷ lệ 0,15%/năm tính trên số dư tiền gửi được bảo hiểm bình quân tại tổ chức tham gia BHTG.
Nguồn vốn của BHTG Việt Nam được hình thành chủ yếu từ phí do các tổ chức BHTG đóng góp. Đây là yếu tố quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc thị trường, sử dụng nguồn tài chính do chính các tổ chức tham gia BHTG đóng góp, giảm sử dụng ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các tổ chức tài chính yếu kém. Tính đến cuối năm 2011, tổng số phí thu được từ các tổ chức tham gia BHTG là 6.074 tỷ đồng, số thu phí hàng năm tăng trung bình trên 20%. Từ năm 2004, 100% nguồn thu phí BHTG được bổ sung vào Quỹ nghiệp vụ BHTG của BHTGVN.
Nguồn thu từ phí góp phần quan trọng vào việc tăng quy mô nguồn vốn quỹ của BHTGVN. Phí BHTG đồng hạng với đặc điểm dễ quản lý, dễ tính và thu phí phù hợp trong giai đoạn đầu triển khai hệ thống BHTG tại Việt Nam khi tổ chức BHTG chưa có đủ nguồn nhân lực và các nguồn lực cần thiết khác.
Tuy vậy, hiện nay tỷ lệ phí cố định ở mức thấp trong bối cảnh tiền gửi được bảo hiểm tăng trưởng nhanh thời gian vừa qua dẫn đến tình trạng tỷ lệ tổng nguồn vốn/tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm của BHTGVN giảm dần theo từng năm. Chỉ tính riêng giai đoạn 2005 – 2011 đã giảm từ 1,07% xuống khoảng 0,8%. Quy mô nguồn vốn quỹ hiện tại của BHTGVN không đảm bảo đáp ứng xử lý 02 ngân hàng quy mô trung bình đổ vỡ. Hệ thống phí đồng hạng không còn phù hợp trong bối cảnh hệ thống ngân hàng mở cửa, hội nhập, phát triển nhanh đi kèm theo đó là rủi ro tăng cao.
Phí BHTG theo rủi ro – kinh nghiệm ở một số nước
TTrên thế giới hiện hiện có 2 phương thức tínhtính phí BHTG chủ yếu: đồng hạng và theo mức độ rủi ro của các tổ chức tín dụng. Với phí đồng hạng, số tiền phí phải nộp được tính theo một tỷ lệ phí đồng nhất áp dụng cho tất cả các tổ chức tham gia BHTG. Phí theo mức độ rủi ro với các tỷ lệ phí khác nhau, có phân biệt áp dụng cho từng nhóm tổ chức tham gia BHTG theo nguyên tắc tổ chức có rủi ro cao hơn phải nộp phí cao hơn và ngược lại. Dưới đây, xin dẫn chứng một số quốc gia:
Tổng công ty BHTG Đài Loan (CDIC)
CDIC áp dụng hệ thống phí đồng hạng từ năm 1985 đến năm 1999. Từ năm 1999 đến nay, CDIC triển khai hệ thống phí theo mức độ rủi ro. Về tổng thể, CDIC xếp hạng tổ chức thành viên bằng cách sử dụng 2 nhóm chỉ tiêu chính là: i) tỷ lệ mức đủ vốn (CAR); và ii) điểm tổng hợp của hệ thống xếp hạng dữ liệu kiểm tra do hệ thống cảnh báo sớm tính toán. G
Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính vừa qua, với việc quỹ dự trữ BHTG bị âm 1,8 tỷ USD, Luật BHTG Đài Loan mới được áp dụng từ 01/1/2011 cho phép CDIC tăng phí BHTG lên các nhóm mức 0,05% - 0,06% - 0,08% - 0,11% - 0,15% tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm thay vì 3 mức là 0,05%; 0,055% và 0,06%.
Tổng công ty BHTG Malaysia (PIDM)
Điều 53 của Luật BHTG Malaysia cho phép PIDM áp dụng hệ thống phí theo mức độ rủi ro.
Kể từ khi được thành lập vào năm 2005, PIDM áp dụng hệ thống phí đồng hạng. Từ đầu năm 2006, PIDM đã thành lập nhóm nghiên cứu xây dựng hệ thống phí theo mức độ rủi ro và năm 2007 hoàn thành. Trong giai đoạn 2008-2010, PIDM triển khai xin ý kiến các đơn vị có liên quan, chỉnh sửa hệ thống phí và đến năm 2011 bắt đầu áp dụng thu phí theo mức độ rủi ro. Các tỷ lệ phí hiện tại được PIDM áp dụng: 0,03% - 0,06% - 0,12% - 0,24% tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm.
Tổng công ty BHTG Mỹ (FDIC)
FDIC áp dụng phí đồng hạng từ năm 1933 đến năm 1991. Năm 1991, Quốc hội Mỹ ban hành Đạo luật cải tiến hoạt động FDIC cho phép FDIC áp dụng phí theo rủi ro nhằm đảm bảo nguồn lực ứng phó tốt hơn với rủi ro tăng cao của hệ thống ngân hàng; đồng thời, hạn chế tình trạng tổ chức tài chính có rủi ro thấp phải tài trợ phần phí cho các tổ chức có rủi ro cao.
Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua, FDIC đã áp dụng một loạt các biện pháp điều chỉnh hệ thống phí nhằm đảm bảo đủ nguồn lực xử lý ngân hàng đổ vỡ tại Mỹ. Các giải pháp chủ yếu bao gồm: i) thay đổi cơ sở tính phí BHTG từ tổng số tiền gửi được bảo hiểm sang tổng tài sản; ii) tăng tỷ lệ phí; iii) áp dụng hình thức thu trước 3 năm phí BHTG của các tổ chức tham gia BHTG.
Tiếp cận thông lệ quốc tế
Khảo sát của Hiệp hội BHTG quốc tế tại 63 quốc gia trên thế giới cho thấy, hiện nay, có 38/63 nước đang áp dụng phí đồng hạng, 25/63 nước áp dụng mức phí phân biệt. Theo thông lệ quốc tế, các tổ chức BHTG có xu hướng áp dụng phương thức tính phí đồng hạng trong giai đoạn tổ chức BHTG mới thành lập, sau đó chuyển sang áp dụng phương thức tính phí theo mức độ rủi ro. Điều này xuất phát từ hai yếu tố chủ yếu: i) sau một thời gian hoạt động, tổ chức BHTG tích luỹ đủ nguồn lực, kinh nghiệm, có khả năng đánh giá, xếp hạng, phân loại các tổ chức tham gia BHTG một cách phù hợp; ii) từ yêu cầu của chính hệ thống ngân hàng (yêu cầu nâng cao động lực quản trị rủi ro, đảm bảo công bằng cho các tổ chức tham gia BHTG, từ đó nâng cao sự an toàn, lành mạnh của toàn hệ thống).
Việc chuyển đổi phương thức tính phí cần có thời gian nghiên cứu, tính thử, tổng hợp ý kiến của các bên có liên quan (tổ chức tham gia BHTG, cơ quan quản lý) trước khi chính thức áp dụng phương thức tính phí theo mức độ rủi ro. Điều quan trọng là để có thể triển khai phí theo rủi ro, cần phải có sự đánh giá, xếp hạng các tổ chức tham gia BHTG. Luật BHTG năm 2012 không quy định một mức phí hay một khung phí “cứng” mà trao thẩm quyền cho Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí BHTG theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước. Căn cứ vào khung phí BHTG, Ngân hàng Nhà nước quy định mức phí BHTG cụ thể đối với tổ chức tham gia BHTG trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức này. Như vậy, những quy định mới về phí BHTG đã tiếp cận với thông lệ quốc tế; đồng thời, đảm bảo tính linh hoạt khi áp dụng phí BHTG trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh. Hy vọng rằng, phương pháp tính phí BHTG theo rủi ro sẽ nhanh chóng được áp dụng ở Việt Nam, tạo động lực cho các tổ chức tín dụng giảm thiểu rủi ro để được hưởng mức phí thấp và đảm bảo sự công bằng, cạnh tranh lành mạnh trên thị trường tài chính.
Tài liệu tham khảo:
- Luật BHTG;
- Tài liệu nghiên cứu của Vụ Công tác đại biểu - Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Một số vấn đề về BHTG”