Nhìn chung, hoạt động TCVM diễn ra ở Việt Nam trong thời gian qua được tổ chức theo các mô hình như sau: (i) Một là, mô hình chỉ chuyên cung cấp dịch vụ tiết kiệm – tín dụng cho phụ nữ nghèo, thường là do các tổ chức phi chính phủ quốc tế tài trợ thông qua đối tác là Hội liên hiệp phụ nữ; (ii) Hai là, mô hình tín dụng tiết kiệm phát triển tổng hợp, gắn tín dụng với các hoạt động khác như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và môi trường,… trong đó dịch vụ tín dụng chỉ là một phần nhỏ trong gói tài trợ. Mô hình thuộc loại này thường được các tổ chức quốc tế tài trợ, phục vụ cho mục đích xã hội nhất thời rồi kết thúc; (iii) Ba là, mô hình hợp tác liên kết giữa tổ chức Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (LHPNVN) và ngân hàng thương mại (Dự án VIE91/P01 liên kết giữa Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn với Trung ương Hội LHPNVN). Theo đó, ngân hàng thương mại sẽ cấp vốn thông qua các nhóm Phụ nữ tiết kiệm do Hội phụ nữ tổ chức và quản lý, không đòi hỏi phải thế chấp tài sản, thay vào đó là sự bảo lãnh của nhóm.
Năm 1992, tổ chức tài chính vi mô đầu tiên được thành lập, trực thuộc HộiLHPNVN, dưới hình thức Quỹ Tình thương (quỹ TYM) với mục đích hỗ trợ vốn và kiến thức cho phụ nữ nghèo cải thiện kinh tế gia đình. Quỹ luôn kiên trì theo đuổi tôn chỉ, mục đích đã đề ra để giúp đỡ chị em phụ nữ với dịch vụ chủ yếu là cung cấp tín dụng vi mô không cần tài sản thế chấp với thủ tục đơn giản thông qua việc thành lập cụm, nhóm vay vốn. Các khoản vay được tăng dần qua các năm và lặp lại nhiều lần, đồng thời xây dựng cơ chế tiết kiệm linh hoạt, hoàn trả vốn và lãi theo tuần, sự thông thoáng này tạo nên điểm ưu thế của tổ chức TCVM so với các tổ chức tín dụng (TCTD) hiện hành. Quỹ đã triển khai làm ủy thác hoạt động bảo hiểm vi mô nhằm hỗ trợ cho thành viên và gia đình của họ không may bị ốm hoặc qua đời. Điểm nổi bật nhất của Quỹ này là Hội LHPNVN đã lồng ghép các hoạt động văn hóa, xã hội, giúp chị em phụ nữ nâng cao được nhận thức và năng lực hoạt động về mọi mặt. Quỹ TYM đã triển khai hoạt động tại 10 tỉnh/thành phố và thu hút gần 50.000 thành viên là phụ nữ nghèo với tổng dư nợ vốn trên 250 tỷ đồng, số tiền tiết kiệm huy động được từ thành viên đạt gần 60 tỷ đồng.
Từ năm 2010, Quỹ TYM được chuyển đổi theo mô hình Tổ chức tài chính quy mô nhỏ trách nhiệm hữu hạn một thành viên Tình Thương (TYM) theo Nghị định 28/2005/NĐ-CP ngày 9/3/2005 và Nghị định 165/2007/NĐ-CP ngày 15/11/2007 của Chính phủ. Với mô hình mới, TYM có thể huy động tiết kiệm trong cộng đồng cũng như nguồn vốn từ các định chế tài chính trong nước, ngoài nước và chính thức hội nhập thị trường tài chính quốc gia. Đồng thời, TYM cũng chịu sự giám sát thường xuyên hơn của các cơ quan quản lý nhà nước, sự giám sát của toàn xã hội, được pháp luật bảo vệ, được thực hiện đầy đủ các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của nhà nước đối với tổ chức mới thành lập. Từ năm 2011, theo quy định của Luật Các TCTD 2010, TYM được gọi là tổ chức TCVM và được điều chỉnh bằng Luật Các TCTD. Hiện nay, TYM có tru sở chính tại Hà Nội, 17 chi nhánh và 12 phòng giao dịch tại các địa phương trong cả nước. TYM có vốn điều lệ là 78,9 tỷ đồng, tổng tài sản đến 31/12/2011 là 447 tỷ đồng, trong đó tiền gửi của khách hàng là 122 tỷ đồng.
Năm 2012, tổ chức TCVM thứ hai được cấp giấy phép thành lập và hoạt động tại Việt Nam - Tổ chức TCVM TNHH M7. Đây là tổ chức TCVM trên cơ sở chuyển đổi hoạt động TCVM của Quỹ Hỗ trợ phụ nữ miền núi phát triển huyện Mai Sơn (Sơn La) được thành lập từ năm 2007 trước đây; Quỹ Khuyến khích phụ nữ phát triển thị xã Uông Bí được thành lập năm 2004 và Quỹ Hỗ trợ phụ nữ Đông Triều (Quảng Ninh) được thành lập năm 2007. Tổ chức này đã hoạt động tại 38 xã, phường thuộc ba huyện, thị xã của Sơn La và Quảng Ninh, đã hỗ trợ tín dụng thành công cho hơn 37 nghìn thành viên là phụ nữ nghèo và người có thu nhập thấp, góp phần thực hiện chủ trương xóa đói, giảm nghèo quốc gia và nâng cao vị thế người phụ nữ Việt Nam trong gia đình và xã hội.
Có thể thấy rằng, kể từ khi ra đời cho đến nay, các tổ chức TCVM đã có những hoạt động tích cực và đóng góp chung vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo tại Việt Nam, thông qua việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho người nghèo, cũng như các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ, không có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ của NHTM. Tổ chức TCVM thực hiện cho vay các khoản vay nhỏ, phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn của người nghèo. Việc chia nhỏ các khoản vay, giúp phân tán rủi ro tín dụng của khách hàng vay vốn. Các khoản cho vay vi mô thủ tục thường đơn giản, thuận tiện, có thể không cần tài sản thế chấp như vay vốn tại các NHTM, mà chủ yếu là tín chấp. Việc trả nợ được thực hiện qua nhiều lần, nhiều giai đoạn khác nhau, không nhất thiết, phải trả một lần khi đáo hạn.
Mạng lưới hoạt động của tổ chức TCVM tương đối rộng, giao dịch thuận tiện, đặc biệt đối với người nghèo, khu vực vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, tổ chức TCVM dễ dàng tiếp cận các khoản tiền tiết kiệm nhỏ, tạm thời chưa sử dụng đến, với chi phí thấp từ khách hàng. Cùng với các khoản tài trợ, cách thức huy động tiền tiết kiệm như trên, bước đầu góp phần ổn định tài chính đối với tổ chức TCVM. Đặc biệt, không chỉ cung cấp các dịch vụ tài chính cho người nghèo, tổ chức tTCVM còn chia sẻ kiến thức về tài chính, kinh nghiệm, cách thức làm ăn đối với người nghèo, từ đó giúp người vay sử dụng vốn hiệu quả, có khả năng hoàn trả nợ vay. Thực tế cho thấy, tỷ lệ hoàn trả nợ cho tổ chức TCVM rất cao, đạt trên 90%, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu thấp, hoặc hầu như không có.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, với số lượng, địa bàn là lĩnh vực hoạt động còn hạn chế như trên, tổ chức TCVM chỉ là mô hình hoạt động mới Việt Nam, chưa thể đáp ứng được nhu cầu tín dụng của người nghèo, người có thu nhập thấp, các doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ; hơn nữa việc phát triển các tổ chức TCVM cũng chưa đồng bộ và còn manh mún (chủ yếu xuất phát từ các hiệp hội phụ nữ). Mặt khác, khung pháp lý và hoạt động giám sát an toàn đối với các tổ chức TCVM vẫn còn những hạn chế nhất định. Hiện nay hoạt động của tổ chức TCVM đã được quy định bởi Luật Các TCTD năm 2010, tuy nhiên chưa được hướng dẫn cụ thể bằng các văn bản dưới Luật để thuận tiện cho việc triển khai hoạt động TCVM. Trên thực tế, các tổ chức TCVM hiện nay còn đang phải đối mặt với không ít áp lực về vấn đề lãi suất, nguồn lực tài chính, môi trường cạnh tranh, chính sách lao động tiền lương, chính sách thuế...,việc huy động tiền gửi là vấn đề không hề dễ dàng bởi lợi thế cạnh tranh thấp hơn so với loại hình các TCTD khác. Trong khi đó, các tổ chức TCVM dường như cũng khó khăn trong việc chia sẻ cách thức làm ăn hiệu quả, giúp hộ nghèo kiểm soát đồng vốn cũng như khả năng sinh lời của khoản vay.
Để thu hẹp khoảng cách phát triển và cải thiện khả năng tiếp cận các cơ hội và dịch vụ xã hội của người nghèo, Việt Nam cần giải quyết các yêu cầu về các dịch vụ TCVM thuận lợi đến tất cả mọi người. Nhiều chuyên gia kinh tế nước ngoài cũng khẳng định, Việt Nam cần phải xây dựng năng lực tổ chức bền vững về tài chính và tuân theo các chuẩn mực tài chính quốc tế, nhằm nâng cao tính minh bạch và uy tín cho các tổ chức TCVM; làm cho các tổ chức có thể tiếp cận rộng rãi các nguồn vốn bên ngoài; thích ứng với môi trường đang thay đổi và cung cấp các dịch vụ cho người nghèo một cách bền vững. Đặc biệt, cần áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến báo cáo tài chính, các chính sách kế toán và quản lý tín dụng, làm cho tính minh bạch ngày càng cao. Ngoài ra, các tổ chức TCVM cũng cần đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm, dịch vụ đáp ứng yêu cầu của khách hàng góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo.
Cần thiết phải xây dựng các văn bản cụ thể hướng dẫn thi hành Luật Các TCTD liên quan đến hoạt động TCVM, làm cơ sở phát triển dịch vụ TCVM nói chung, cũng như hoạt động của tổ chức TCVM. Xây dựng giải pháp quản lý đối với hoạt động TCVM của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức phi chính phủ. Hỗ trợ các tổ chức TCVM trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ, chuyên gia, hình thành cơ sở đào tạo về TCVM, xây dựng cơ sở dữ liệu chung về TCVM, tiến tới thành lập Hiệp hội TCVM như các hiệp hội ngành nghề khác. Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung khuôn khổ pháp lý cho phép đa dạng hóa loại hình tổ chức hoạt động và mở rộng sản phẩm dịch vụ TCVM; nghiên cứu, ban hành các quy định để tạo điều kiện liên kết hoạt động của các tổ chức TCVM với hoạt động của các loại hình TCTD khác. Xây dựng cơ chế giám sát an toàn, cơ chế trao đổi thông tin về hoạt động của các tổ chức TCVM đối với các cơ quan quản lý và các cơ quan giám sát thị trường tài chính ở Việt Nam.
Hiện nay, các tổ chức TCVM đang hoạt động chưa được cấp Chứng nhận bảo hiểm tiền gửi. Trong khi đó, tổ chức TCVM TNHH một thành viên Tình Thương (TYM) đã thực hiện huy động vốn từ năm 2010. Theo các quy định hiện hành, thì tổ chức TCVM cũng phải tham gia bảo hiểm tiền gửi đối với phần tiền gửi tự nguyện của thành viên. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, đồng thời đảm bảo an toàn hoạt động của các tổ chức TCVM như các loại hình tổ chức tài chính khác đang hoạt động tại Việt Nam, thì các tổ chức TCVM phải hoàn thành thủ tục tham gia bảo hiểm tiền gửi, trước khi huy động vốn.