Nhìn lại quá trình tái cơ cấu ngân hàng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2011-2015
Có thể thấy, từ năm 2008, do tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, suy thoái kinh tế thế giới và những yếu kém nội tại của nền kinh tế trong nước, kinh tế vĩ mô có nhiều yếu tố bất ổn (lạm phát cao, tăng trưởng kinh tế suy giảm, sản xuất kinh doanh trì trệ, nhiều doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động), thị trường bất động sản, chứng khoán sụt giảm mạnh, trầm lắng kéo dài. Trong bối cảnh đó, những yếu kém, tồn tại, vi phạm pháp luật và biểu hiện lợi ích nhóm trong các TCTD bộc lộ rõ rệt; hệ thống các TCTD ở thời điểm cuối năm 2011 hết sức khó khăn, một bộ phận không nhỏ các TCTD trong trạng thái mất khả năng chi trả, tiềm ẩn rủi ro rất cao, có nguy cơ đổ vỡ gây mất an toàn hệ thống.
Trước tình hình đó, thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng và Chính phủ về đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động hệ thống các TCTD được nêu tại Thông báo số 191-TB/TW ngày 01/9/2005 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Kết luận số 10-KL/TW ngày 18/10/2011 của Hội nghị Trung ương lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI), Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã xây dựng, báo cáo Bộ Chính trị, Chính phủ và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015”; Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD” và Đề án “Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam”.
Theo báo cáo của Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng (NHNN), tính đến cuối năm 2015, sau 04 năm triển khai các Đề án nêu trên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, với nỗ lực, quyết tâm của ngành Ngân hàng và sự hỗ trợ của các Bộ, ngành, địa phương, quá trình thực hiện cơ cấu lại và xử lý nợ xấu của các TCTD giai đoạn 2011-2015 đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, đặt nền móng cho sự phát triển bền vững hơn của hệ thống ngân hàng ở giai đoạn tiếp theo.
Thứ nhất, các tồn tại, yếu kém của hệ thống TCTD và từng TCTD đã được xử lý một bước quan trọng; sự ổn định, an toàn hệ thống các TCTD được giữ vững và từng bước cải thiện; tài sản của Nhà nước, nhân dân được bảo đảm an toàn, chi trả đầy đủ. Hệ thống các TCTD được cơ cấu lại toàn diện, không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước.
Thứ hai, hoạt động sáp nhập, hợp nhất diễn ra trên cơ sở tự nguyện, chủ yếu sử dụng các nguồn lực của xã hội và không sử dụng trực tiếp tiền của ngân sách nhà nước. Số lượng các TCTD có quy mô nhỏ, hoạt động yếu kém giảm dần.
Thứ ba, năng lực tài chính và quy mô hoạt động của các TCTD từng bước cải thiện góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế; năng lực quản trị ngân hàng từng bước được nâng cao, tiệm cận với thông lệ quốc tế.
Thứ tư, tỷ lệ nợ xấu trong nội bảng của hệ thống các TCTD từng bước được kiểm soát và duy trì ở mức dưới 3% từ cuối năm 2015 đến nay. Toàn ngành Ngân hàng đã nỗ lực triển khai mọi biện pháp có thể theo quy định của pháp luật, bao gồm tăng cường trích lập, sử dụng dự phòng rủi ro, bán nợ, cơ cấu lại nợ, xử lý tài sản bảo đảm, tiết giảm chi phí, hạn chế chia cổ tức, lợi nhuận… để tạo nguồn xử lý nợ xấu.Nợ xấu của hệ thống ngân hàng hiện nay phần lớn được tích tụ từ những năm trước đây, khi kinh tế thế giới bước vào giai đoạn khủng hoảng, kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn. Năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu của các TCTD” tại Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013, đã đưa ra các nhóm giải pháp lớn nhằm từng bước kiềm chế, xử lý và đưa nợ xấu về ngưỡng an toàn. Bám sát lộ trình, mục tiêu, giải pháp nêu tại Đề án, toàn ngành Ngân hàng đã tích cực, chủ động triển khai các giải pháp xử lý nợ xấu. Đến nay, trong bối cảnh nền kinh tế, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, song nợ xấu đã từng bước được kiềm chế và xử lý một cách hiệu quả. Cụ thể, từ năm 2012 đến hết tháng 5/2017, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 640,45 nghìn tỷ đồng nợ xấu, trong đó nợ xấu do các TCTD tự xử lý chiếm 57,3%, còn lại là bán nợ (bao gồm bán cho VAMC và tổ chức, cá nhân khác) chiếm 42,7%. Từ cuối năm 2015 đến nay, tỷ lệ nợ xấu luôn được duy trì ở mức dưới 3% (tháng 5/2017 là 2,53%).
Thứ năm, sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống các TCTD đã được xử lý một bước quan trọng; tình trạng cổ đông/nhóm cổ đông lớn, thao túng, chi phối ngân hàng đã được xử lý và kiểm soát về cơ bản, nhóm lợi ích giảm dần.
Thứ sáu, hoàn thiện một bước quan trọng khuôn khổ pháp lý về tiền tệ và ngân hàng, hình thành đồng bộ hơn các chuẩn mực, thiết chế an toàn phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam nhằm hỗ trợ tái cơ cấu, xử lý nợ xấu.
Tiếp tục các giải pháp để tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020
Một trong những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế trong quá trình cơ cấu lại và xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD trong thời gian qua đó là các văn bản pháp lý và cơ chế, chính sách hỗ trợ tái cơ cấu, xử lý nợ xấu còn thiếu, tồn tại nhiều bất cập và chậm được hoàn thiện, bổ sung kịp thời; tính cưỡng chế, hiệu lực thực thi pháp luật chưa cao.
Để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, chính sách về xử lý nợ xấu, NHNN đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội Nghị quyết về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD và đã được Quốc hội thông qua ngày 21/6/2017 (Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu). Nghị quyết này đã cho phép áp dụng nhiều chính sách mới (so với pháp luật hiện hành) về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, giải quyết được nhiều vướng mắc trong quá trình xử lý nợ xấu trước đây của TCTD, góp phần tạo lập cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho việc xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán nợ xấu, nhờ đó có thể xử lý nhanh, dứt điểm nợ xấu, bảo đảm cho hệ thống các TCTD tiếp tục phát huy tốt vai trò cung ứng vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.
Bên cạnh các kết quả đạt được trong quá trình tái cơ cấu nêu trên, hệ thống các TCTD vẫn còn một số tồn tại, yếu kém cần tiếp tục được khắc phục trong thời gian tới. Vì vậy, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, NHNN đã xây dựng Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” trình Bộ Chính trị, Chính phủ và Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 về việc phê duyệt Đề án.
Theo đó, Đề án đã xác định cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu là khách quan, cần thiết và là một quá trình thường xuyên, liên tục, tiếp nối và kế thừa của quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu trong giai đoạn trước. Đề án đưa ra các nhóm giải pháp bao gồm:
(i) Nhóm giải pháp chung: giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách; giải pháp nâng cao năng lực tài chính, chuyển đổi mô hình kinh doanh, quản trị, điều hành của TCTD; giải pháp tăng cường đổi mới công tác thanh tra, giám sát…
(ii) Nhóm giải pháp cơ cấu lại cụ thể đối với từng loại hình TCTD, trong đó, đối với loại hình NHTM cổ phần, công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính, Đề án phân loại thành 2 nhóm (nhóm lành mạnh và nhóm yếu kém) để có các giải pháp cơ cấu lại phù hợp, triệt để, bảo đảm an toàn hệ thống.
(iii) Nhóm giải pháp về xử lý nợ xấu: giải pháp về mua nợ xấu theo giá trị thị trường và nâng cao năng lực tài chính của VAMC, giải pháp về thành lập Tổ công tác liên ngành về xử lý nợ xấu, giải pháp xử lý các khoản nợ xấu liên quan đến nợ đọng xây dựng cơ bản có nguồn gốc từ ngân sách trung ương, địa phương và nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước, nợ xấu cho vay theo các chương trình dự án, chỉ định của Chính phủ...
NHNN đang tích cực chỉ đạo toàn ngành và tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương để triển khai các giải pháp nêu tại Đề án nhằm xử lý dứt điểm các tồn tại, yếu kém của giai đoạn trước, bảo đảm hệ thống TCTD hoạt động an toàn, lành mạnh và bền vững.
Việc ban hành đồng thời Nghị quyết và Đề án nêu trên cho thấy quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc tái cơ cấu toàn diện hệ thống TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn của hệ thống, bảo đảm tài sản của Nhà nước và nhân dân; đồng thời, cho thấy tái cơ cấu và xử lý nợ xấu là hai cấu phần không thể tách rời, là nhiệm vụ chính trị quan trọng của toàn Đảng, toàn dân chứ không phải của riêng ngành Ngân hàng. Cơ chế, chính sách thuận lợi hơn, sự phối hợp và đồng thuận cao hơn chính là động lực và cơ hội quyết định sự thành công của công cuộc tái cơ cấu và xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020. Việc triển khai đồng bộ các giải pháp về tái cơ cấu và xử lý nợ xấu sẽ bảo đảm tái cơ cấu các TCTD một cách toàn diện, bền vững; trong đó, nợ xấu được xử lý và kiểm soát hiệu quả; góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Triển khai quyết liệt tái cơ cấu và xử lý nợ xấu thời gian tới
Để công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu trong thời gian tới đi đúng lộ trình và đạt mục tiêu đề ra, ngay khi Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Nghị quyết về thí điểm xử lý nợ xấu được Quốc hội thông qua, NHNN đã khẩn trương ban hành nhiều văn bản triển khai toàn hệ thống.
Ngày 05/7/2017, Thống đốc NHNN đã ký ban hành Quyết định số 1403/QĐ-NHNN về việc thành lập Ban chỉ đạo cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu của NHNN, trong đó có thành lập Tiểu ban chỉ đạo về xử lý nợ xấu ngành Ngân hàng;
Cùng với đó là Chỉ thị số 06/CT-NHNN ngày 20/7/2017 về việc thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị quyết số 42) và Quyết định số 1058/QĐ-TTg phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 (Đề án 1058), trong đó Thống đốc phân công nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị trong toàn ngành. Đối với các TCTD, Thống đốc chỉ thị các TCTD quán triệt nội dung và tổ chức thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH14, Đề án 1058 trong toàn hệ thống của từng tổ chức tín dụng; Xây dựng phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu cho giai đoạn 2017-2020 trong đó bám sát việc triển khai các chính sách tại Nghị quyết 42/2017/QH14 và giải pháp tại Đề án 1058 trình NHNN phê duyệt.
Cũng trong ngày 20/7/2017, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 1533/QĐ-NHNN ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển khai Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020.
Đồng thời, NHNN đã có các văn bản hướng dẫn các TCTD xây dựng phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2017-2020. Đối với các TCTD, phải tập trung xây dựng và hoàn thiện ngay Phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu đến năm 2020 với các nội dung tối thiểu như: (i) Đánh giá thực trạng tài chính, hoạt động quản trị điều hành, cổ đông và sở hữu vốn điều lệ của TCTD; (ii) Xác định rõ mục tiêu, định hướng cơ cấu lại và xử lý nợ xấu theo từng năm trong thời gian từ nay đến năm 2020; (iii) Đề xuất các giải pháp cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu và lộ trình thực hiện trên các mặt quản trị điều hành, cổ đông sở hữu cổ phần, thực trạng tài chính, mạng lưới hoạt động, khả năng cạnh tranh… Căn cứ vào phương án do TCTD xây dựng, NHNN sẽ tổ chức thẩm định, phê duyệt/trình phê duyệt và giám sát chặt chẽ việc thực hiện.
Tuy nhiên, việc triển khai thành công quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD và hiệu quả của việc xử lý nợ xấu, bên cạnh sự nỗ lực tự thân của ngành Ngân hàng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó, sự phối hợp của cấp chính quyền địa phương và các bộ, ngành, cơ quan liên quan cùng với sự quan tâm, đồng thuận của các cấp, các ngành và người dân đối với những chủ trương, chính sách về tiền tệ ngân hàng cũng như sự đồng hành, phối hợp trong quá trình triển khai nhiệm vụ tái cơ cấu và xử lý nợ xấu đóng vai trò quan trọng, hỗ trợ đắc lực cho quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu.