Vai trò chính sách BHTG ở một số quốc gia
Ở Mỹ
Tổng công ty BHTG Liên bang Mỹ (FDIC) chính thức hoạt động từ 1/1/1934 với mục tiêu bảo vệ người gửi tiền với nguồn vốn ban đầu là 289 triệu USD. Với bề dày lịch sử hoạt động và phát triển, chính sách BHTG Liên bang Mỹ đã thực hiện thành công vai trò duy trì niềm tin công chúng qua việc nâng hạn mức chi trả và triển khai các giải pháp xử lý có hiệu quả tổ chức bị đổ vỡ và có nguy cơ đổ vỡ, khẳng định tầm ảnh hưởng của tổ chức đối với hoạt động ngân hàng Mỹ.
(1)Về chính sách phí BHTG: FDIC luôn có chính sách phí hợp lý có lợi cho các tổ chức tham gia BHTG, cụ thể:
* Nhằm giảm gánh nặng cho các tổ chức tham gia BHTG sau cuộc khủng hoảng 1929-1933, ban đầu, các tổ chức được FDIC bảo hiểm phải nộp phí hàng năm ở một mức như nhau 0,5% số dư tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm nhưng chỉ phải đóng ngay một nửa số phí, phần còn lại sẽ phải đóng khi FDIC yêu cầu.
* Nhận thấy, việc tính phí theo tiền gửi được bảo hiểm sẽ gây bất lợi cho tổ chức nhỏ, từ tháng 8/1935 đến 1980, cơ sở tính phí BHTG là tổng tiền gửi dự tính thay cho tiền gửi được bảo hiểm dự tính tại tổ chức tham gia BHTG.
*Từ năm 1993, hệ thống tính phí theo mức độ rủi ro của mỗi ngân hàng được áp dụng và cơ sở tính phí là số tiền gửi được bảo hiểm dự tính, mức phí được dựa trên độ an toàn tài chính của tổ chức và mức độ rủi ro có thể gây ra cho Quỹ BHTG. Trong 10 năm (1996-2006), hơn 90% các tổ chức được FDIC bảo hiểm không phải đóng phí hoặc đóng phí với mức gần bằng 0. Đó là nhờ hệ thống ngân hàng phát triển ổn định.
(2) Ngay từ khi đi vào hoạt động, FDIC rất quan tâm đến nguồn vốn hoạt động quỹ BHTG. Việc sử dụng tổng tiền gửi để tính phí chứ không phải tổng tiền gửi được bảo hiểm làm giảm bớt gánh nặng tài chính cho các ngân hàng nhỏ, đồng thời tăng quy mô Quỹ BHTG. Quy mô của Quỹ FDIC tăng liên tục, và được phép vay chính phủ trong trường hợp khẩn cấp, từ đó giúp công chúng tin tưởng vào năng lực tài chính của FDIC trong việc bù đắp tổn thất của người gửi tiền khi xảy ra đổ vỡ ngân hàng.
(3) FDIC có chính sách giám sát rất chặt chẽ gồm 2 nghiệp vụ chính hỗ trợ cho nhau là kiểm tra trực tiếp và giám sát từ xa. FDIC còn có thẩm quyền kiểm tra các loại hình tổ chức được bảo hiểm khác vì mục đích BHTG. Hiện FDIC đang triển khai 2 loại hình kiểm tra định kỳ: kiểm tra về an toàn, lành mạnh và kiểm tra tính tuân thủ các bộ luật bảo vệ người tiêu dùng.
(4) Bảo vệ tiền gửi được bảo hiểm khi một tổ chức tham gia BHTG lâm vào tình trạng khó khăn như mất khả năng thanh toán hoặc có nguy cơ đổ vỡ là một trong những nhiệm vụ cơ bản của FDIC. FDIC sử dụng 3 phương pháp cơ bản xử lý các tổ chức có nguy cơ đổ vỡ như: các giao dịch mua và nhận nợ thay (P&A); chi trả tiền gửi được bảo hiểm (Pay-off); các giao dịch hỗ trợ ngân hàng mở (OBA).
Thông qua các hoạt động của mình, FDIC đã bảo vệ và tăng cường niềm tin của công chúng vào hệ thống tài chính Mỹ bằng cách thực hiện BHTG ở các ngân hàng và tổ chức tiết kiệm; xác định, kiểm soát và chỉ ra những rủi ro cho Quỹ BHTG; hạn chế ảnh hưởng xấu đối với nền kinh tế và hệ thống tài chính khi có một ngân hàng hay một tổ chức tiết kiệm bị đổ vỡ, duy trì niềm tin của công chúng và sự ổn định hệ thống tài chính quốc gia bằng cơ chế BHTG, kiểm tra, giám sát các tổ chức tài chính và tham gia quản lý tài sản khi các tổ chức tham gia BHTG lâm vào tình trạng khó khăn, thúc đẩy tính an toàn và lành mạnh của hệ thống tài chính Mỹ cũng như các tổ chức nhận tiền gửi được bảo hiểm bằng cách xác định, kiểm soát và chỉ ra những rủi ro cho các Quỹ BHTG
Chính sách BHTG ở Mỹ đã đạt được kết quả đáng kể như: người gửi tiền được bảo hiểm trong cuộc khủng hoảng 1980 và mới đây nhất là cuộc khủng khoảng 2008-2009 diễn ra, người gửi tiền đều yên tâm và tin tưởng vào hệ thống ngân hàng trong trường hợp ngân hàng xảy ra đổ vỡ. Như vậy, chính sách BHTG Mỹ đã khẳng định vai trò không thể thiếu của mình đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng tại Mỹ.
Ở Nhật Bản
Trong bối cảnh các thị trường tài chính ở Nhật Bản cạnh tranh mạnh mẽ, Luật BHTG được ban hành vào ngày 1/4/1971 và 3 tháng sau đó Tổng công ty BHTG Nhật Bản (DICJ) được thành lập với nguồn vốn được đóng góp ban đầu là 450 triệu Yên. Vào tháng 7/1986, sự gia nhập của các ngân hàng lao động bơm thêm 5 triệu Yên cho nguồn vốn của DICJ. Ngoài ra, Chính phủ cũng bơm thêm 5 tỉ Yên cho “Tài khoản của Jusen” vào tháng 7/1996.
Năm 1996, Nhật Bản thực hiện chính sách nới lỏng điều tiết trực tiếp, chuyển dần sang hệ thống tài chính theo cơ chế thị trường, từ đấy luật BHTG cũng được sửa đổi, nguồn tài chính cho DICJ tăng. Năm 1998, Nhật Bản cho phép DICJ thực hiện những chức năng bổ sung liên quan đến việc xử lý tổ chức tài chính đổ vỡ, bao gồm các nhiệm vụ liên quan đến điều hành tài chính,ngân hàng bắc cầu, và thực hiện bơm vốn như biện pháp tạm thời cho việc tái thiết hệ thống tài chính.
Ngoài các nghiệp vụ hỗ trợ tài chính, thu phí, DICJ còn có nhiệm vụ đối phó với khủng hoảng, nếu việc đổ vỡ của một tổ chức tài chính xảy ra gây tổn hại nghiêm trọng cho sự ổn định của hệ thống tài chính, DICJ có thể thực hiện các nghiệp vụ sau: Mua cổ phiếu của tổ chức tài chính; Hỗ trợ tài chính cho tổ chức tài chính đổ vỡ và/hoặc tổ chức tài chính thâm hụt vốn vượt quá chi phí chi trả; Thâu tóm toàn bộ số lượng cổ phiếu của tổ chức tài chính bị đổ vỡ với thâm hụt vốn (ngân hàng thuộc chương trình quản lý khủng hoảng đặc biệt).
Qua quá trình hoạt động, DICJ đóng vai trò quan trọng đối với hệ thống ngân hàng quốc gia trong việc cung cấp một mạng lưới an toàn cho người gửi tiền, trả tiền bảo hiểm khi một tổ chức tài chính bị đổ vỡ; vận hành hệ thống BHTG cung cấp hỗ trợ tài chính và mua lại nợ xấu của các tổ chức gặp khó khăn nhưng có thể tồn tại được; đóng vai trò là người điều hành các tổ chức tài chính đổ vỡ.
Một số gợi ý nhằm nâng cao vai trò chính sách BHTG tại Việt Nam
Mặc dù, chính sách BHTG nói chung vẫn còn một số hạn chế, bản thân tổ chức BHTG có thể phải đối mặt với một số những khó khăn nhất định, song từ thực tiễn vai trò của 2 tổ chức BHTG, bài viết xin rút ra một số kinh nghiệm nhằm nâng cao hoạt động của chính sách BHTG tại Việt Nam:
Sớm triển khai hướng dẫn nghiệp vụ phù hợp với Luật BHTG: Luật BHTG số 06/2012/QH13 là cơ sở pháp lý cao nhất ở Việt Nam hiện nay khi triển khai chính sách BHTG ở Việt Nam , song các văn bản nghiệp vụ lại chưa được triển khai đồng bộ. Vì vậy, tổ chức BHTG gặp khó khăn trong việc thực thi hai mục tiêu đề ra của chính sách BHTG.
Một vấn đề trong thời gian tới cũng không kém phần quan trọng là việc chuẩn hóa và điều chỉnh cơ sở pháp lý cho chính sách BHTG cần được triển khai kịp thời và liên tục để đảm bảo sự cập thường xuyên với sự thay đổi nhanh chóng và phát triển không ngừng của các đối tác trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc nghiên cứu, chỉnh sửa văn bản pháp lý, thông tư hướng dẫn v.v. triển khai chính sách BHTG có sự quan tâm, song cũng chưa thật đồng bộ và kịp thời, dẫn đến triển khai nhiều nội dung quan trọng trong khuôn khổ chính sách BHTG vẫn còn gặp phải nhiều lúng túng. Thực tiễn cho thấy, hiệu quả của chính sách BHTG ở một quốc gia phụ thuộc vào một phần không nhỏ sự quan tâm của tổ chức và cá nhân có liên quan tới quá trình phát triển, cải tiến chính sách BHTG.
Sử dụng các biện pháp xử lý hiệu quả. Bài học từ Mỹ cho thấy, ban đầu FDIC cũng chỉ chủ yếu sử dụng biện pháp chi trả để xử lý các tổ chức bị đổ vỡ. Tuy nhiên, sau khi ngành ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng ngân hàng những năm 1980, FDIC nói riêng và các cơ quan quản lý ngân hàng nói chung đã thực hiện nhiều biện pháp xử lý khác nhằm giảm chi phí so với biện pháp chi trả cho người gửi tiền được BHTG. Như vậy, vận dụng linh hoạt của các chính sách BHTG cần phải phù hợp theo từng thời kỳ và giai đoạn của nền kinh tế từng quốc gia.
Luật pháp Mỹ cho phép FDIC thực hiện trách nhiệm là cơ quan quản lý tài sản của các tổ chức tham gia BHTG lâm vào tình trạng đổ vỡ. Khi đó FDIC được quyền đánh giá giá trị tài sản của tổ chức này và lựa chọn phương thức xử lý sao cho chi phí bỏ ra thấp nhất. FDIC đã thiết lập một quy trình xử lý các tổ chức tham gia BHTG lâm vào tình trạng đổ vỡ bắt đầu từ khi các cơ quan có chức năng giám sát ngân hàng thông báo về tình trạng đổ vỡ của tổ chức tham gia BHTG cho đến khi làm thủ tục đóng cửa tổ chức bị đổ vỡ (FDIC, 2003, Resolutions Handbook).
Tăng cường nguồn lực.Tổ chức BHTG cần có sự đầu tư nguồn lực thích đáng để triển khai hiệu quả chính sách BHTG. Tổ chức BHTGVN cần được tăng cường nguồn lực, gồm vốn cho quỹ BHTG. Nguồn tài chính của tổ chức BHTG phải đủ lớn để có thể “giám sát” và “xử lý” ngay khả năng thanh khoản tức thời khi xảy ra hoạt động trả tiền bảo hiểm.
Theo kinh nghiệm của các quốc gia có hoạt động BHTG phát triển, nguồn tài chính là yếu tố được quan tâm hàng đầu ngay từ khi tổ chức BHTG được thành lập. Ví dụ, FDIC luôn chú trọng đến việc tăng quy mô Quỹ BHTG và quan tâm xem năng lực tài chính có đủ để bù đắp tổn thất của người gửi tiền khi xảy ra đổ vỡ ngân hàng hay không?
Mặt khác, chính phủ sớm có cơ chế tài chính và cấp cho BHTGVN một hạn mức tín dụng dự phòng phù hợp theo tổng tiền gửi được bảo hiểm đối với những trường hợp khẩn cấp, đặc biệt khi xảy ra hoảng loạn ngân hàng, đột biến rút tiền gửi gây nguy cơ khủng hoảng hệ thống. Việc cấp cho BHTGVN một hạn mức tín dụng dự phòng/Tổng tiền gửi theo tỷ lệ tiền gửi được bảo hiểm phù hợp với đặc thù Việt
Phổ cập thông tin về chính sách BHTG ở mức độ cao hơn, phong phú về hình thức, rộng rãi về đối tượng triển khai. Công tác phổ cập thông tin về chính sách BHTG hiện nay được đánh giá có sự tiến bộ đáng kể. Mặc dầu vậy, để đảm bảo mục tiêu của chính sách, công tác này cần được quan tâm nhiều hơn nữa với hình thức phong phú hơn. Ngoài tổ chức BHTGVN, tổ chức tham gia BHTG là đối tác quan trọng và chủ lực triển khai hoạt động phổ cập thông tin về chính sách BHTG; cần dành một khoản kinh phí đúng mức cho hoạt động này. Tại Mỹ, thông tin về chính sách BHTG được in trên các ấn phẩm được sử dụng từ cấp tiểu học trở lên, vì hầu hết tất cả thành viên trong xã hội sử dụng dịch vụ ngân hàng, có tiền gửi ngân hàng.
Vào thời điểm này, nền kinh tế ở Việt Nam vẫn đang có dấu hiệu suy giảm, kinh doanh ngân hàng vẫn đang phải đối mặt với khó khăn nhất định. Bên cạnh đó, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, ví dụ như tình hình kinh tế suy thoái của Mỹ, khủng hoảng kinh tế và chính trị ở nhiều nước châu Âu đã làm ảnh hưởng đến rất nhiều NH trên thế giới, đặc biệt ảnh hưởng trầm trọng đến niềm tin của người gửi tiền trên toàn thế giới, không ngoại trừ Việt Nam, việc khẳng định và nâng cao vai trò của chính sách BHTG là cần thiết và vô cùng quan trọng, góp phần thúc đẩy cho sự phát triển an toàn và lành mạnh hoạt động ngân hàng.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13 ban hành ngày 18/06/2012
2. FDIC (2003), Resolutions Handbook
3. Federal Desposit insurance Corporation,Coverage
4. Panos Konstas (2005), Amoving – Average Formula for Calculating Deposit Insurance Assessment, FDIC Banking Review, 2005, Volume 17, no 3
5. Arai M.Y. (2004), The Japanese Experience of a Single Regulator and Deposit Insurance, Third Annual IADI Conference, Brunnen, Switzerland