Yêu cầu về thành lập hệ thống BHTG – Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam
Bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ chức BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG và người gửi tiền về việc tổ chức BHTG sẽ chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền.
Cuộc khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ những năm đầu thế kỷ 20 với sự sụp đổ của thị trường chứng khoán và khoảng 9.000 ngân hàng đã gây thiệt hại hàng tỷ USD cho người gửi tiền. Trong bối cảnh đó, ngày 16/6/1933, Quốc hội Mỹ đã ban hành Luật BHTG trong đó quy định thành lập Tổng công ty BHTG Liên bang nhằm bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền.
Trong hai thập kỷ 1960-1970, hệ thống BHTG đã được thành lập và phát triển ở một loạt các nước như Na Uy (1961), Ấn Độ (1963), Philippines (1963), Đức (1966), Canada (1967), Phần Lan (1969), Nhật Bản (1971), Bỉ (1974), Hà Lan và Áo (1979).
Đối với các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi ở khu vực Châu Âu, việc áp dụng những khuyến nghị về các thông lệ quốc tế tốt nhất để trở thành thành viên của EU là cơ hội để các nước này thành lập tổ chức BHTG của mình, chẳng hạn Hungary (1993), Cộng hòa Séc (1994), Ba Lan (1995), Rumani (1996), Cộng hòa Latvia (1998).
Tại Châu Á xu hướng thành lập hệ thống BHTG trở nên mạnh mẽ và nhanh chóng kể từ năm 1980, đặc biệt trong và sau giai đoạn khủng hoảng tài chính Châu Á: Đài Loan (1985), Hàn Quốc (1996), Indonesia và Hong Kong (2004), Malaysia (2005), Singapore (2005), Thái Lan (2008). Tính đến năm 2010 đã có 106 quốc gia và vùng lãnh thổ triển khai các hình thức BHTG và có 19 quốc gia đang trong quá trình nghiên cứu thành lập hệ thống BHTG.
Có thể nói, hầu hết các hệ thống BHTG trên thế giới đều do Chính phủ thành lập hoặc là một bộ phận của Ngân hàng Trung ươngnhằm duy trì lòng tin của người gửi tiền ngay cả trong thời điểm khó khăn nhất. Bên cạnh đó, tổ chức BHTG còn có mục đích duy trì an toàn, lành mạnh hoạt động hệ thống tài chính ngân hàng vàgóp phần ổn định nền kinh tế.
Tại Việt Nam, nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng phát triển ổn định và lành mạnh hóa hệ thống tài chính quốc gia, ngày 01/9/1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP về BHTG. Đây là cơ sở để triển khai chính sách bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam.
Ngày 09/11/1999 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg thành lập BHTG Việt Nam. Đây là một sự kiện quan trọng vì lần đầu tiên trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam có một hình thức bảo hiểm công khai.Đây cũng chính là bước đi thích hợp trong tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Căn cứ Nghị định 89/1999/NĐ-CP, BHTG Việt Nam là tổ chức được giao nhiệm vụ triển khai chính sách bảo hiểm tiền gửi với các nghiệp vụ kiểm tra, giám sát các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tính và thu phí bảo hiểm tiền gửi, hỗ trợ tài chính, chi trả tiền gửi được bảo hiểm, quản lý và thanh lý tài sản của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị đổ vỡ và tuyên truyền chính sách bảo hiểm tiền gửi.
Trong suốt chặng đường 15 năm hoạt động, BHTGVN đã từng bước khẳng định được vai trò của mình trong tiến trình đổi mới, cơ cấu lại hệ thống tài chính ngân hàng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia BHTG và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội.
Hệ thống các văn bản pháp luật về BHTG tuy đã quy định tương đối đầy đủ các nội dung cơ bản cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam,nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế, một số bất hợp lý cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam hiện nay và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Luật BHTG – cơ sở pháp lý và một số đề xuất chính sách đối với BHTGVN Ngày 18/6/2012,Luật BHTG ra đời và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013,khẳng định vai trò và vị thế quan trọng của BHTGVN trong hệ thống tài chính ngân hàng.. Luật BHTG được xây dựng trên nguyên tắc kế thừa và phát huy những điểm tiến bộ so với các Nghị định trước đây. Có thể nói việc triển khai và đưa Luật vào cuộc sống đã tạo ra khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh hơn cho hoạt động BHTG nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người gửi tiền và góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
Trên cơ sở quy định của Luật, ngày 28/6/2013 Chính phủ ban hành Nghị định số 68/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật BHTG. HiệnBHTG Việt Nam đã chủ động triển khai các hoạt động theo quy định tại Luật BHTG và Nghị định 68/2013/NĐ-CP. Tuy nhiên, vẫn chưa có cácvăn bản dưới Luật , đặc biệt là các Thông tư hướng dẫn cụ thể, chi tiết của NHNN Việt Nam để tổ chức BHTG phát huy hiệu quả trong bối cảnh hiện nay.
Để làm được điều này, các cơ quan chức năng cần khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật BHTG, trong đó, cần đặc biệt quan tâm tới một số vấn đề sau:
- Về hạn mức trả tiền bảo hiểm
Đây là vấn đề trực tiếp ảnh hưởng tới hành vi của người gửi tiền, là yếu tố được người gửi tiền quan tâm nhiều nhất trong chính sách BHTG. Hạn mức trả tiền bảo hiểm quá thấp rất khó duy trì niềm tin của người gửi tiền và khi có sự cố xảy ra thường khó tránh khỏi hiện tượng đột biến rút tiền hàng loạt.
Khoản 2 Điều 24 Luật BHTG quy định “Thủ tướng Chính phủ quy định hạn mức trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của NHNN Việt Nam trong từng thời kỳ”.
Theo đó hạn mức trả tiền bảo hiểm không còn “đóng khung” một mức cụ thể như các quy định trước đây mà sẽ được thay đổi linh hoạt, đáp ứng nhanh tình hình thực tế và nguyện vọng của người gửi tiền.
Hạn mức 50 triệu đồng vẫn được áp dụng từ năm 2005 đến nay đã quá lạc hậu. Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa thấy có động thái tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi sau hơn 1 năm Luật BHTG có hiệu lực thi hành.
Do đó, cần sớm nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm cho phù hợp với sự thay đổi của các yếu tố làm căn cứ xác định hạn mức trả tiền bảo hiểm, qua đó góp phần nâng cao niềm tin của người gửi tiền vào các tổ chức tín dụng.
- Về phí BHTG
Tại Việt Nam, phí BHTG được áp dụng đồng hạng 0,15% trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm. Việc áp dụng mức phí đồng hạng chỉ phù hợp trong giai đoạn đầu triển khai hệ thống BHTG khi tổ chức BHTG chưa có đủ các nguồn lực cần thiết.
Tuy nhiên, hạn chế của việc áp dụng mức phí đồng hạng là không công bằng, tiềm ẩn rủi ro đạo đức và hạn chế sự cạnh tranh giữa các tổ chức tham gia BHTG trong việc nâng cao chất lượng hoạt động để hưởng mức phí thấp hơn. Với sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam cả về số lượng và trình độ trong những năm qua, áp dụng hệ thống phí đồng hạng đã không còn phù hợp với thực tiễn.
Khoản 1, 2 Điều 20 Luật BHTG quy định “Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí BHTG theo đề nghị của NHNN Việt Nam. Căn cứ vào khung phí BHTG, NHNN Việt Nam quy định mức phí BHTG cụ thể đối với tổ chức tham gia BHTG trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức này”.
Như vậy, nếu tiến tới áp dụng sớm quy định về phí BHTG trên cơ sở rủi ro, Luật BHTG sẽ khắc phục được những hạn chế trong việc áp dụng mức phí đồng hạng trước đây, quy định này cũng hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động và giảm thiểu rủi ro hệ thống.
- Về cơ chế phối hợp và trao đổi thông tin với NHNN
Khoản 10 Điều 13 Luật BHTG về quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG quy định BHTG Việt Nam có trách nhiệm “Tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin về tổ chức tham gia BHTG nhằm phát hiện và kiến nghị NHNN Việt Nam xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng”. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ này, BHTG Việt Nam cần có đủ nguồn thông tin đầu vào để có thể phân tích, đánh giá hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG.
Khoản 2 Điều 34 Luật BHTG quy định “Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm để tổ chức bảo hiểm tiền gửi tiếp cận dữ liệu thông tin về tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Chính phủ”.
Điều 10 Nghị định số 68/2013/NĐ-CP quy định nguyên tắc cung cấp thông tin của NHNN cho BHTG Việt Nam, các thông tin BHTG Việt Nam được tiếp cận từ dữ liệu thông tin của NHNN tuy nhiên Nghị định chưa cụ thể hóa phương thức tiếp cận thông tin của tổ chức BHTG từ NHNN, điều này hiện đang làm hạn chế tính chủ động tiếp cận thông tin của BHTG Việt Nam.
Do đó cần thiết ban hành cơ chế chia sẻ thông tin cụ thể, chi tiết hơn giữa BHTG Việt Nam và NHNN trong đó quy định rõ phạm vi, quyền hạn, trách nhiệm các bên trong khai thác, xử lý thông tin, phương thức chia sẻ thông tin, nhất là những thông tin đột xuất liên quan đến những đơn vị đang gặp vấn đề trong hoạt động để BHTG Việt Nam có thể chủ động triển khai đầy đủ các hoạt động nghiệp vụ theo quy định của Luật BHTG.