ST là công cụ quan trọng về quản lý rủi ro nội bộ của các ngân hàng được phát triển bởi các nhà giám sát trên cơ sở nguyên tắc an toàn vốn của Basel II. Trong quản lý ngân hàng, ST đưa ra cảnh báo về những kết quả bất lợi liên quan đến các rủi ro và chỉ ra nhu cầu vốn cần thiết để tiếp nhận tổn thất khi xảy ra các cú sốc lớn. Ngoài ra, ST là công cụ hỗ trợ tiếp cận các biện pháp xử lý rủi ro khác. Nó đóng vai trò đặc biệt trong:
+ Cung cấp đánh giá rủi ro trong tương lai;
+ Khắc phục các hạn chế của các mô hình và dữ liệu lịch sử;
+ Hỗ trợ tương tác thông tin nội bộ và bên ngoài;
+ Cung cấp các thủ tục hoạch định thanh khoản và nguồn vốn;
+ Cung cấp dữ liệu về thiết lập sức chịu đựng rủi ro của ngân hàng
+ Hỗ trợ phát triển quy trình giảm thiểu rủi ro hoặc kế hoạch dự phòng trước các tình huống căng thẳng về tài chính.
Giai đoạn ổn định về kinh tế - tài chính lâu dài có thể dẫn đến tình trạng chủ quan và đánh giá thấp rủi ro. Chính vì thế, ST càng trở nên đặc biệt quan trọng khi con người lãng quên những ký ức tiêu cực về thời kỳ khó khăn. Đây cũng là một công cụ trọng yếu về quản lý rủi ro trong giai đoạn mở rộng hoạt động khi những cải tiến mang lại nhiều sản phẩm mới, nhưng lại hạn chế do không có sẵn dữ liệu về tổn thất.
Trụ cột 1 (yêu cầu vốn tối thiểu) theo khuôn khổ Basel II yêu cầu ngân hàng sử dụng phương pháp mô hình nội bộ để xác định vốn theo rủi ro thị trường nhằm xây dựng chương trình ST phù hợp. Tương tự, các ngân hàng sử dụng các phương pháp xếp loại rủi ro tín dụng nội bộ nền tảng và tiên tiến áp dụng ST rủi ro tín dụng để đánh giá tính ổn định của vốn nội bộ và khoảng cách an toàn vốn trên vốn tối thiểu. Theo yêu cầu của Basel II, ở mức tối thiểu, các ngân hàng đưa danh mục tín dụng trong sổ sách ngân hàng vào chương trình ST. ST tổng quát các ngân hàng là một phần của trụ cột 2 (quy trình thẩm tra giám sát) bao gồm các kịch bản khắt khe hơn hiện tại và có kết quả phù hợp hơn với các căng thẳng được giám sát.
Cuộc khủng hoảng vẫn đang tiếp diễn và các bài học tương lai có thể nảy sinh. Trên cơ sở đánh giá việc triển khai ST trong khủng hoảng và trong nỗ lực cải thiện thực tiễn, ủy ban Basel phát triển các nguyên tắc bền vững cho ngân hàng và các cơ quan giám sát bao gồm mục tiêu tổng thể, quản trị, thiết kế và triển khai chương trình ST cũng như các vấn đề liên quan đến ST trên các sản phẩm, các rủi ro riêng rẽ.
Các khuyến nghị nhằm mục tiêu đẩy mạnh và tăng cường việc thực hiện chương trình ST của các ngân hàng và đánh giá của các cơ quan giám sát. Bản thân ST không thể đề cập tất cả các yếu kém về quản lý rủi ro, nhưng xét từ khía cạnh của phương pháp bao quát, ST lại đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh quản trị ngân hàng và lấy lại sự hồi phục nhanh chóng cho hệ thống tài chính và các ngân hàng riêng lẻ.
Thông thường, ST được sử dụng để đánh giá tình hình tài chính của ngân hàng theo những kịch bản khắt khe nhưng đáng tin cậy, góp phầnvào quá trìnhđưa ra các quyết định quan trọng trong nội bộ ngân hàng.
Thuật ngữ ST được sử dụng không chỉ đối với các cơ chế kiểm tra riêng lẻ đặc biệt đang được áp dụng, mà còn trong môi trường rộng hơn khi các chương trình kiểm tra được xây dựng, đánh giá và sử dụng trong quá trình đưa ra quyết định.
Các khuyến nghị dưới đây được trình bày rõ ràng chính xác theo quan điểm hướng đến áp dụng cho các ngân hàng lớn, phức tạp. Phạm vi áp dụng nên phù hợp với quy mô và tính phức tạp trong kinh doanh ngân hàng và mức bao quát về rủi ro mà nó chấp nhận. Vì vậy, các khuyến nghị này nên được áp dụng đối với các ngân hàng trên cơ sở cân xứng.
Khuyến nghị đối với ngân hàng
(i) Sử dụng ST và tích hợp vào quản trị rủi ro: ST nên trở thành một bộ phậntrong văn hóa quản lý rủi ro và quản trị bao quát của ngân hàng. Sự quan tâm đúng mức của hội đồng quản trị và ban quản lý cấp cao là điều kiện tiên quyết đối với hoạt động hiệu quả của ST.
Ngân hàng thực hiện chương trình ST nhằm: tăng cường nhận diện và kiểm soát rủi ro; cung cấp góc nhìn bổ sung cho các công cụ quản lý rủi ro khác; nâng cao quản lý thanh khoản và vốn; tăng cường tương tác thông tin nội bộ và bên ngoài.
Các chương trình ST nên lưu ý các quan điểm xét từ góc độ tổ chức và nên bao gồm nhiều viễn cảnh cũng như kỹ thuật định lượng – định tính.
Ngân hàng nên có các thủ tục và chính sách bằng văn bản quản lý chương trình ST. Quá trình thực hiện chương trình ST nên được cụ thể bằng tài liệu thích hợp.
Ngân hàng nên có cơ sở hạ tầng vững chắc thích hợp tại chỗ, đủ linh hoạt để điều tiết các ST ở mức chi tiết thích hợp.
Ngân hàng nên duy trì và nâng cấp thường xuyên mô hình ST. Hiệu quả chương trình ST, cũng như sự vững chắc của các thành phần riêng lẻchính yếu nên được đánh giá thường xuyên và độc lập.
(ii) Phương pháp luận ST và sự lựa chọn kịch bản
1. ST nên bao gồm một dãy các rủi ro và các lĩnh vực kinh doanh trên phạm vi toàn công ty. Ngân hàng có thể tổng hợp toàn bộ các hoạt động ST một cách có hiệu quả để trình bày bức tranh toàn cảnh rủi ro của công ty.
2. Chương trình ST nên bao gồm nhiều kịch bản, bao gồm các kịch bản tương lai, và nhằm tính đến các hiệu ứng hồi tiếp cũng như tương tác toàn hệ thống.
3. ST nên hướng về các biến cố có khả năng gây nguy hiểm nhất về quy mô tổn thất hoặc tổn thất danh tiếng. Chương trình ST cũng nên xác định kịch bản nào có thể thách thức khả năng đứng vững của ngân hàng (ST đảo chiều) , từ đó phát hiện các rủi ro ẩn và sự tương tác giữa các rủi ro.
4. Trong khuôn khổ chương trình ST tổng thể, ngân hàng nên lưu ý các áp lực trên các thị trường tài sản và vốn, và tác động của sự suy giảm về thanh khoản thị trường lên việc đánh giá rủi ro.
(iii) Các lĩnh vực trọng tâm tiêu biểu
1. Hiệu quả của các kỹ thuật giảm thiểu rủi ro nên được đánh giá một cách có hệ thống.
2. Chương trình ST phải trình bày rõ ràng về các sản phẩm tài chính phức tạp.
3. Ngân hàng nên tăng cường các phương pháp luận ST để nắm bắt ảnh hưởng của rủi ro danh tiếng. Ngân hàng nên tích hợp các rủi ro nảy sinh từ các phương tiện ngoại bảng và các thực thể liên quan khác vào chương trình ST của mình.
4. Ngân hàng nên tăng cường các phương pháp ST đối với các bên đối tác có sử dụng đòn bẩy tài chính cao trong việc xem xét tính dễ bị tổn thương của nó theo các danh mục tài sản cụ thể hoặc các biến động thị trường và trong việc đánh giá rủi ro tiềm ẩn do sai phương pháp về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro.
Khuyến nghị đối với các cơ quan giám sát.
1. Các cơ quan giám sát nên tiến hành đánh giá thường xuyên và bao quát về các chương trình ST của các ngân hàng.
2. Yêu cầu ban quản lý ngân hàng thực hiện chấn chỉnh khi phát hiện ra thiếu sót về vật chất trong quá trình triển khai ST, hoặc kết quả của ST không được xem xét kỹ lưỡng trong quá trình ra quyết định.
3. Đánh giá, thử thách phạm vi và tính khốc liệt của các kịch bản. Ngoài ra, có thể yêu cầu ngân hàng sử dụng các kịch bản cá biệt hoặc đánh giá các kịch bản mà trong đó khả năng đứng vững của ngân hàng có thể bị đe dọa (kịch bản ST đảo chiều).
Theo trụ cột 2, các cơ quan giám sát nên kiểm tra các kết quả ST như một phần của thẩm tra giám sát nhằm đánh giá vốn nội bộ của ngân hàng cũng như hoạt động quản lý rủi ro thanh khoản. Xem xét thực hiện các chương trình ST trên cơ sở các kịch bản thông thường.Các cơ quan giám sát nên tiến hành đối thoại có tính xây dựng với các cơ quan công quyền và ngành để phát hiện ra những yếu điểm mang tính hệ thống, đồng thời bảo đảm về năng lực và kỹ năng thẩm định chương trình ST của các ngân hàng.
Phòng Nghiệp vụ 1 – Chi nhánh BHTG Khu vực NTB và TN
Nguồn:
Principles for sound stress testing practices and supervision
Basel Committee on Banking Supervision