Cần sửa đổi Luật Bảo hiểm tiền gửi sau 10 năm thực thi
Từ khi Luật Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) được Quốc hội thông qua vào ngày 18/6/2012 và chính thức có hiệu lực từ 01/01/2013 tới nay, quá trình thực thi đã kéo dài 10 năm với nhiều kết quả tích cực. Với việc luật hóa và cụ thể hóa nhiều nội dung, Luật Bảo hiểm tiền gửi đã nâng cao hiệu lực cũng như khả năng thực thi của chính sách bảo hiểm tiền gửi, đưa chủ trương bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng lên một tầm cao mới. Luật này đã xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về BHTG, tổ chức BHTG, tổ chức tham gia BHTG cũng như quy định về quyền lợi của người gửi tiền được BHTG, qua đó tạo ra hành lang thông thoáng, rõ ràng cho hoạt động BHTG. Suốt quá trình triển khai rốt ráo, các quy định của Luật đã đi vào cuộc sống, tiếp tục phát huy hiệu quả mạnh mẽ.
Hiện nay, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) đang bảo vệ cho tiền gửi của hơn 89 triệu người gửi tiền tại 1.283 tổ chức tham gia BHTG, gồm 97 ngân hàng thương mại và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1.181 quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), 1 ngân hàng hợp tác xã và 4 tổ chức tài chính vi mô. Tính đến hết quý II năm 2022, kết quả thu phí và đầu tư nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi góp phần nâng tổng tài sản của BHTGVN đạt hơn 88 nghìn tỷ đồng, trong đó Quỹ dự phòng nghiệp vụ đạt trên 82 nghìn tỷ đồng, tạo tiềm lực vững chắc cho BHTGVN trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an toàn, lành mạnh hoạt động ngân hàng.
Tuy nhiên, sau 10 năm, bối cảnh ngành ngân hàng đã có nhiều thay đổi. Hệ thống ngân hàng ngày càng lớn mạnh cả về quy mô lẫn các loại hình sản phẩm, dịch vụ. Đi kèm với quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, các cơ chế, chính sách đã nhiều lần được sửa đổi. Tiêu biểu là Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD đã trao thêm chức năng, nhiệm vụ mới cho BHTGVN nhằm tham gia tích cực vào quá trình này. BHTGVN được giao nhiệm vụ cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt; mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ; tham gia đánh giá tính khả thi của phương án phục hồi QTCND, tổ chức tài chính vi mô, công ty tài chính; tham gia xây dựng phương án phá sản TCTD được kiểm soát đặc biệt, tham gia Ban kiểm soát đặc biệt... Đây đều là những chức năng, nhiệm vụ chưa được quy định tại Luật BHTG.
Bên cạnh đó, các Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 và 2021-2025 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đều nhấn mạnh việc sử dụng nguồn lực của BHTGVN nhằm hỗ trợ phục hồi, xử lý các tổ chức tín dụng quy mô nhỏ gặp vấn đề. Để tạo hành lang pháp lý triển khai những chủ trương này, cần có quy định cụ thể trong Luật BHTG và đảm bảo sự thống nhất của Luật này với các luật có liên quan như Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD.
Chính vì vậy, tại Quyết định 689/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025 mới được ban hành ngày 8/6/2022 vừa qua, Thủ tướng đã chỉ đạo nhóm giải pháp về cơ sở pháp lý cơ cấu lại, xử lý nợ xấu của TCTD có nội dung nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm tiền gửi và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan theo hướng: Nghiên cứu, xây dựng và bổ sung cơ chế hỗ trợ cho các TCTD tham gia cơ cấu lại các TCTD yếu kém để hạn chế tối đa tác động tiêu cực đến tài chính và hoạt động; Nghiên cứu, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được tham gia cơ cấu lại TCTD yếu kém; Nghiên cứu, xây dựng tiêu chuẩn thẩm định giá khoản nợ (trong đó có khoản nợ xấu) nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thẩm định giá khoản nợ, đảm bảo khách quan trong việc thẩm định giá của các khoản nợ (trong đó có khoản nợ xấu). Đồng thời, Đề án cũng xác định nguồn lực thực hiện các giải pháp tái cơ cấu bao gồm nguồn từ trích lập dự phòng rủi ro, xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu; nguồn tiền từ thực hiện chức năng của ngân hàng trung ương về phát hành tiền; quỹ dự phòng nghiệp vụ của bảo hiểm tiền gửi; nguồn lực từ ngân sách nhà nước; các nguồn lực hợp pháp khác.
Do đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật BHTG được đặt ra ở thời điểm này là cấp thiết, có tính chất nền tảng nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ người gửi tiền, bảo vệ an toàn hệ thống ngân hàng.
Luật BHTG cần đồng bộ với các luật khác có liên quan, hướng tới các thông lệ quốc tế
Theo thông tin từ BHTGVN, tổ chức tài chính nhà nước này đã thực hiện đánh giá, tổng kết quá trình triển khai Luật BHTG đồng thời đề xuất một số nội dung sửa đổi, bổ sung Luật này. Sau 10 năm đi vào cuộc sống, đây là dịp để nhìn lại toàn bộ các khía cạnh thực tiễn của Luật Bảo hiểm tiền gửi. Việc kiến tạo hành lang pháp lý cho chính sách BHTG không chỉ nhằm giải quyết các khó khăn, vướng mắc hiện hữu mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược nhằm sớm dự liệu sẵn những vấn đề trong tương lai, cung cấp những công cụ chính sách hiệu quả để cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng cũng như cơ quan BHTG sử dụng khi cần thiết.
Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật BHTG trước hết nhằm xử lý những vướng mắc đã phát sinh trong quá trình triển khai chính sách này trong thời gian qua, đồng thời sửa đổi Luật BHTG để có những quy định thống nhất với các Luật có liên quan như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD (Luật số 17/2017/QH14), Luật Phá sản… Bên cạnh đó, sửa đổi, bổ sung những nội dung của Luật BHTG nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, phù hợp với thông lệ quốc tế, nâng cao vị thế, vai trò của BHTGVN để tham gia sâu hơn, hiệu quả hơn vào quá trình cơ cấu lại hệ thống TCTD, nhằm bảo vệ tốt hơn, kịp thời hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.
Trong thời gian qua, đặc biệt là trong thời kỳ dịch COVID-19 diễn biến phức tạp và lan rộng trên toàn thế giới cũng như những biến động về chính trị, kinh tế thế giới, nhiều quốc gia đã có động thái sửa đổi, bổ sung chính sách BHTG theo hướng nâng cao vai trò của tổ chức BHTG, trao thêm quyền hạn cho tổ chức BHTG nhằm ngăn ngừa hay ứng phó với các cuộc khủng hoảng tài chính. Có thể kể tới như Canada, Malaysia, Geogia đã thông qua Luật BHTG sửa đổi, Bangladesh đã đệ trình dự luật BHTG sửa đổi lên Quốc hội. Các quốc gia này đều hướng tới tăng cường năng lực của tổ chức BHTG, gia tăng công cụ xử lý của tổ chức BHTG. Tại Hàn Quốc, các cơ quan quản lý ngành tài chính cũng đã bàn thảo về việc trao thẩm quyền cho Tổng công ty BHTG can thiệp sớm, vào cuộc hỗ trợ cho các công ty tài chính gặp vấn đề nhằm ngăn ngừa khủng hoảng lan rộng. Bên cạnh đó, nhiều quốc gia với hệ thống BHTG phát triển cũng đã đem lại nhiều bài học kinh nghiệm về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức BHTG cũng như các quy định của Luật BHTG. Đây là nguồn tham khảo đáng chú ý đối với BHTGVN và cơ quan quản lý ngân hàng trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật BHTG sắp tới.