Chuyển đổi số ngành ngân hàng đã đạt những kết quả ấn tượng
Theo hãng tư vấn chiến lược toàn cầu McKinsey, ngành ngân hàng Việt Nam được đánh giá có mức độ ứng dụng ngân hàng số với tốc độ nhanh nhất trong khu vực, tăng từ 41% năm 2015 lên đến 82% vào năm 2021, cao hơn mức tăng bình quân 23% của toàn khu vực, thậm chí cao hơn mức tăng bình quân 33% của thị trường mới nổi.
Các dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là dịch vụ thanh toán điện tử có tốc độ số hóa, tăng trưởng nhanh. Năm 2021, thanh toán qua các kênh thanh toán điện tử duy trì mức tăng trưởng cao so với năm 2020: Giao dịch qua kênh Internet tăng tương ứng 48,76% về số lượng giao dịch và 32,59% về giá trị; giao dịch qua kênh điện thoại di động tăng tương ứng 75,97% về số lượng và 87,5% về giá trị.
Nhiều giải pháp, ứng dụng thanh toán mới xuất hiện (như thanh toán, chuyển tiền tức thời cho phép kiểm tra thông tin tài khoản người nhận để hạn chế sai sót; thanh toán nhanh chóng, tiện lợi một chạm qua QR Code động không đòi hỏi nhập số tiền thanh toán; thanh toán sử dụng biệt danh - Alias để giảm bớt bước nhập thông tin tài khoản...) đã chứng tỏ khả năng công nghệ, sáng tạo, nhạy bén với nhu cầu thị trường của ngành ngân hàng Việt Nam, góp phần tạo ra giá trị mới, cung ứng những sản phẩm, dịch vụ hữu ích cho người dân, xã hội. Tỷ lệ người dân trưởng thành có tài khoản thanh toán đạt gần 66% với tốc độ tăng trưởng bình quân 11,44% từ năm 2015 - 2021.
Đồng thời, nhiều ngân hàng Việt Nam đã đầu tư nghiên cứu, nâng cấp hạ tầng đổi mới, linh hoạt, phù hợp với chuyển đổi số thông qua việc triển khai các hệ thống Core Banking mới hoặc đưa hạ tầng công nghệ lên nền tảng điện toán đám mây (Cloud Computing). Nhiều nghiệp vụ ngân hàng đã được số hóa toàn diện 100%; nhiều ngân hàng đã ghi nhận tỷ lệ hơn 90% giao dịch của khách hàng được thực hiện qua kênh số. Đến hết tháng 12/2021, đã có 24 ngân hàng báo cáo triển khai chính thức với khoảng 3,4 triệu tài khoản thanh toán mở bằng eKYC đang hoạt động và đến ngày 1/3/2022, đã có khoảng 1,3 triệu thẻ ngân hàng được mở bằng eKYC đang hoạt động. Ngoài ra, các mô hình, thương hiệu ngân hàng số của các ngân hàng truyền thống liên tục được ra mắt, cung cấp các dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số đổi mới sáng tạo, thuận tiện, nhanh chóng cho khách hàng. Các mô hình ngân hàng số mới này cho phép ngân hàng triển khai sản phẩm, dịch vụ nhanh chóng, linh hoạt (Agile), giảm 80% thời gian đưa sản phẩm mới ra thị trường so với công nghệ các thế hệ trước.
Để có được những kết quả đó, thời gian qua, ngành ngân hàng đã chủ động, tích cực tận dụng cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 nghiên cứu, xây dựng các chính sách, kế hoạch lớn mang tính chất định hướng, tận dụng cơ hội cuộc CMCN 4.0, thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng như Đề án thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) trải dài nhiều giai đoạn từ năm 2006; Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
NHNN thường xuyên rà soát để chỉnh sửa, bổ sung khuôn khổ pháp lý nhằm tạo thuận lợi, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển hoạt động ngân hàng số, cụ thể: Trình Chính phủ ban hành Nghị định số 87/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền, trong đó cho phép các tổ chức tài chính nhận biết khách hàng thông qua ứng dụng công nghệ, không cần gặp mặt trực tiếp khách hàng; xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn về thanh toán QR Code, tiêu chuẩn thẻ chíp nhằm tăng cường kết nối, xử lý liên thông trong thanh toán cũng như tích hợp với các ngành, lĩnh vực khác...; ban hành quy định và cấp phép cho 48 tổ chức không phải ngân hàng cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; ban hành hướng dẫn mở tài khoản thanh toán của cá nhân, mở thẻ ngân hàng bằng phương thức định danh điện tử (eKYC); trình Chính phủ Quyết định phê duyệt triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ (Mobile Money) và đã phối hợp với các Bộ cấp phép thí điểm Mobile Money cho 3 nhà mạng viễn thông; ban hành Chỉ thị về việc đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng; sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều thông tư hướng dẫn về công tác đảm bảo an ninh an toàn và hoạt động nghiệp vụ hướng tới việc phù hợp với cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số... NHNN đang tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan như: Xây dựng và trình Chính phủ dự thảo Nghị định TTKDTM (thay thế Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ; Trình Chính phủ Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng làm cơ sở cho việc ứng dụng nhanh chóng các công nghệ, giải pháp đổi mới sáng tạo vào lĩnh vực ngân hàng; Nghiên cứu, đề xuất sửa đổi các quy định về Luật Giao dịch điện tử để đảm bảo đầu tư và huy động nguồn lực từ doanh nghiệp, xã hội, thúc đẩy chuyển đổi số...
Bên cạnh đó, NHNN thường xuyên quan tâm đến việc nâng cấp, xây dựng hạ tầng phục vụ hoạt động chuyển đổi số. Các NHTM cũng không ngừng đầu tư công nghệ, hạ tầng kỹ thuật để tăng cường an ninh bảo mật, cung ứng nhiều sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tiện ích cho khách hàng. Đồng thời, ngành ngân hàng đã đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục tài chính nhằm nâng cao kỹ năng và khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính ngân hàng cho khách hàng trên môi trường số.
Mặc dù xu hướng chuyển đổi số ngành ngân hàng đã phát triển mạnh, đạt được nhiều thành tựu đáng chú ý, nhưng thực tế cũng đặt ra nhiều thách thức lớn như: Sự đồng bộ và phù hợp của các quy định pháp lý hiện hành liên quan về giao dịch điện tử, chữ ký điện tử, chứng từ điện tử, việc định danh và xác thực khách hàng điện tử, việc chia sẻ dữ liệu và bảo mật thông tin khách hàng, quy định nghiệp vụ xử lý giao dịch trên nền tảng số... ; Hạ tầng kỹ thuật của một số đơn vị trong và ngoài ngành vẫn là những hệ thống cũ, chưa được nâng cấp để đảm bảo sự tương thích cho chuyển đổi số và việc thiếu hụt các tiêu chuẩn chung dẫn tới thách thức cho việc tích hợp và kết nối, liên thông giữa các đơn vị trong triển khai các sản phẩm dịch vụ số hóa; Xu hướng gia tăng hoạt động tội phạm, tấn công mạng, tốc độ thay đổi nhanh chóng của công nghệ và đảm bảo an ninh, an toàn bảo mật xuyên suốt trong quá trình cung ứng dịch vụ tới khách hàng; Việc thiếu hụt nhân sự trình độ cao cũng như cạnh tranh nhân sự trong tuyển dụng và sự cân bằng về hiệu quả trong đầu tư nguồn lực cho chuyển đổi số…
Nâng cao kỹ năng cho khách hàng sử dụng dịch vụ tài chính ngân hàng trên môi trường điện tử
Thực tế, người sử dụng dịch vụ tài chính đang là đối tượng dễ bị tội phạm mạng tấn công nhất và cũng dễ bị tổn thương nhất. Tội phạm công nghệ thường sử dụng các thủ đoạn lừa đảo qua tin nhắn, website giả mạo để đánh cắp tiền. Ngày nay, hệ thống bảo mật của các ngân hàng thương mại đã ngày càng được đầu tư và nâng cấp nên tội phạm mạng không dễ gì đột nhập để đánh cắp thông tin.
Thời gian tới, để đạt được các mục tiêu của quá trình chuyển đổi số ngành ngân hàng, truyền thông giáo dục tài chính có vai trò quan trọng, cùng với nâng cao hơn nữa vai trò của các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng tài chính. Bởi đây sẽ là những yếu tố giúp gia tăng niềm tin của khách hàng và khuyến khích họ sử dụng dịch vụ tài chính ngân hàng trên nền tảng số ngày một phổ biến, an toàn và hiệu quả hơn, đồng thời người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế cũng được thụ hưởng vô vàn lợi ích của quá trình số hóa ngân hàng.
Do đó, ngành ngân hàng cần tăng cường công tác truyền thông đến khách hàng về các thủ đoạn của tội phạm mạng và các biện pháp bảo vệ thông tin cá nhân trong việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử và thanh toán thẻ; nâng cao nhận thức, hiểu biết người dân về ứng dụng kỹ thuật số và những lưu ý để phòng, tránh rủi ro khi thực hiện giao dịch trên môi trường điện tử. Triển khai các chương trình giáo dục tài chính nâng cao nhận thức của cán bộ, nhân viên trong ngành ngân hàng và người dân trong việc nhận diện các rủi ro và các các biện pháp phòng ngừa của hoạt động ngân hàng trên môi trường mạng. Các hình thức truyền thông cần đơn giản, dễ hiểu, có tính lan tỏa, kết hợp phương pháp truyền thống và hiện đại trên nền tảng công nghệ để đến với nhiều đối tượng công chúng, đặc biệt những người yếu thế, người chưa có tài khoản ngân hàng, giới trẻ, người dân vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn…
Cùng với đó, quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng dịch vụ tài chính cần được quan tâm. Khi sự tin tưởng của người tiêu dùng tài chính tăng lên sẽ góp phần ngăn chặn sự mất cân đối thông tin, gây dựng lại niềm tin, khuyến khích họ chủ động tiếp cận đến các sản phẩm và dịch vụ tài chính chính thức, qua đó thúc đẩy phát triển tài chính toàn diện. Do đó, Việt Nam cần thành lập các cơ quan chuyên trách thực hiện bảo vệ người tiêu dùng tài chính. Người tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ tài chính hết sức đặc thù và ngày càng có nhiều rủi ro trong bối cảnh chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng và thị trường tài chính trở nên phức tạp hơn. Người tiêu dùng mất niềm tin vào hệ thống tài chính có thể dẫn tới sự phát triển của cả nền kinh tế. Chính vì vậy, lĩnh vực tài chính, ngân hàng luôn cần giám sát, có các quy định riêng đặc thù và bảo vệ người tiêu dùng tài chính cũng cần được chú ý và tách riêng. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện, đồng bộ hệ thống văn bản, pháp lý để có cơ chế bảo vệ người tiêu dùng tốt nhất.
Để tăng cường an ninh bảo mật trong ngành ngân hàng, phía NHNN cần tiếp tục nghiên cứu, áp dụng các tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế trong các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) của các tổ chức tín dụng (TCTD) đảm bảo an toàn, bảo mật; Đưa vào áp dụng khung đánh giá rủi ro CNTT theo thông lệ quốc tế để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra tuân thủ các quy định về an toàn bảo mật tại các TCTD, tổ chức trung gian thanh toán; Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của mạng lưới ứng cứu sự cố an ninh CNTT ngành ngân hàng; Phối hợp với các cơ quan chức năng Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ và các tổ chức cung cấp dịch vụ hạ tầng CNTT... để chia sẻ thông tin và hỗ trợ hoạt động đảm bảo an toàn, an ninh mạng của ngành ngân hàng.
Đối với các TCTD, cần rà soát, hoàn thiện và tổ chức triển khai chính sách về an ninh bảo mật CNTT, chính sách về quản lý rủi ro CNTT tuân thủ các văn bản pháp luật của Nhà nước và các quy định của NHNN; Xây dựng lộ trình triển khai áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về an ninh bảo mật cho hệ thống CNTT cũng như các dịch vụ thanh toán trực tuyến, thanh toán thẻ; Rà soát chặt chẽ các quy trình đăng ký, kích hoạt sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử đảm bảo cung cấp dịch vụ cho đúng khách hàng. Đồng thời, các TCTD cần triển khai tích cực các giải pháp về công nghệ như đẩy mạnh xây dựng trung tâm điều hành an ninh mạng để theo dõi, giám sát và ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm nhập, tấn công mạng; Thường xuyên định kỳ đánh giá các điểm yếu, lỗ hổng của hệ thống CNTT; Xây dựng và triển khai diễn tập các quy trình, kịch bản ứng phó với các sự cố an toàn thông tin mạng.
Ngoài ra, các TCTD cần kiện toàn bộ máy CNTT các cấp theo hướng chuyên môn hoá, làm chủ công nghệ, hạn chế sự phụ thuộc vào các đối tác bên ngoài; Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách về an toàn thông tin; Đào tạo, huấn luyện nâng cao kỹ năng xử lý rủi ro cho nhân viên; Xây dựng quy trình xử lý khủng hoảng truyền thông một cách chặt chẽ, khoa học và chuyên nghiệp; Tăng cường công tác kiểm toán nội bộ đảm bảo an toàn các hoạt động nghiệp vụ và hạ tầng CNTT.
Ở tầm vĩ mô, cần có chính sách để các NHTM có thể được chia sẻ dữ liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, tăng cường kết nối giữa các cơ quan Chính phủ.
Về phía khách hàng, để phòng tránh rủi ro, cảnh giác trước các thủ đoạn lừa đảo qua các dịch vụ ngân hàng điện tử, khách hàng cần chú ý tuân thủ các quy định, hướng dẫn của các ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng, đăng ký nhận tin thông báo thay đổi số dư giao dịch. Đối với mật khẩu truy cập dịch vụ giao dịch trực tuyến cần đặt mật khẩu khó đoán, thay đổi mật khẩu thường xuyên và không sử dụng các tính năng lưu mật khẩu để đăng nhập tự động; Không cung cấp tên, mật khẩu đăng nhập ngân hàng trực tuyến, mã xác thực một lần (OTP), cũng như số thẻ ngân hàng qua điện thoại, email, mạng xã hội, website. Trong trường hợp bị lộ hoặc nghi ngờ bị lộ tên đăng nhập/ mật khẩu khách hàng cần nhanh chóng thông báo tới ngân hàng để được hỗ trợ kịp thời; Hạn chế dùng máy tính công cộng, thiết bị di động kết nối với mạng không dây (Wifi) công cộng để truy cập vào hệ thống ngân hàng điện tử; Gõ trực tiếp địa chỉ các trang web ngân hàng điện tử thay vì chọn đường link có sẵn, chỉ đăng nhập tại website chính thức của ngân hàng; luôn đăng xuất khỏi các website đã nhập thông tin cá nhân; Thường xuyên theo dõi, cập nhật các cảnh báo về an toàn bảo mật trong thanh toán trực tuyến từ các ngân hàng cung cấp dịch vụ, từ các phương tiện truyền thông đại chúng.