Việc vay vốn nước ngoài của khối tư nhân cần quy định chặt chẽ hơn
Theo Dự thảo Thông tư, một trong những nội dung mới là quy định cho doanh nghiệp vay nước ngoài ngắn hạn để thanh toán các khoản nợ phát sinh trong 12 tháng, nhưng không được vay phục vụ mua bán chứng khoán kinh doanh, mua phần vốn góp, cổ phần của đơn vị khác, mua bất động sản đầu tư và nhận chuyển nhượng dự án.
Lý giải quy định này, NHNN cho rằng việc tăng trưởng “nóng” của thị trường chứng khoán và kinh doanh bất động sản những năm gần đây tiềm ẩn một số rủi ro như tạo ra tình trạng vốn ảo, “bong bóng” tài sản. Đây là những mầm mống gây bất ổn tài chính vĩ mô.
Vì vậy, cần hạn chế doanh nghiệp vay nước ngoài ngắn hạn cho các mục đích tiềm ẩn rủi ro bong bóng giá như chứng khoán, bất động sản.
Theo nhà điều hành chính sách tiền tệ, định hướng quản lý trên nhất quán với quan điểm đánh giá rủi ro, qua đó cần quản lý chặt chẽ đối với các lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bất động sản trong hoạt động cấp tín dụng trong nước.
Ngoài ra, NHNN dự kiến không cho phép doanh nghiệp dùng vốn vay nước ngoài ngắn hạn để nhận chuyển nhượng dự án đầu tư và mua cổ phần, mua phần vốn góp do việc thực hiện dự án hoặc thâu tóm doanh nghiệp, mua bán sáp nhập là hoạt động mang tính dài hạn.
Theo NHNN, việc doanh nghiệp vay vốn nước ngoài ngắn hạn để thanh toán cho khoản nợ có mục đích sử dụng vốn trung và dài hạn sẽ tạo ra rủi ro thanh khoản, đi ngược lại bản chất của dòng vốn ngắn hạn chỉ nhằm hỗ trợ thiếu hụt thanh khoản tạm thời.
NHNN đặt tình huống, trường hợp bên đi vay nhận chuyển nhượng dự án hoặc mua cổ phần, mua phần vốn góp của doanh nghiệp khác nhưng không nhằm mục tiêu phát triển dự án hoặc quản lý doanh nghiệp mà tiếp tục chuyển nhượng dự án, bán cổ phần cho bên thứ ba thì hoạt động mua đi bán lại này cũng có thể tạo bong bóng giá, không tạo ra giá trị thực cho nền kinh tế và cần bị hạn chế.
"Như vậy, đối với cả hai trường hợp chuyển nhượng dự án và mua cổ phần, mua phần vốn góp nêu trên đều tiềm ẩn rủi ro cao và không nên cho phép sử dụng vốn vay ngắn hạn nước ngoài" - NHNN khẳng định.
NHNN nghiên cứu, đưa ra một số biện pháp quản lý mang tính kỹ thuật. Cụ thể, chi phí vay nước ngoài bằng ngoại tệ bằng lãi suất tham chiếu cộng với 8%/năm; còn vay bằng tiền đồng, lãi suất trái phiếu Chính phủ Việt Nam cộng 8%/năm. Hay bên đi vay phải thực hiện giao dịch phái sinh ngoại tệ đối với khoản vay nước ngoài có kim ngạch trên 500.000 USD… Ngoài ra, dự thảo thông tư còn quy định về giới hạn vay nước ngoài, tỷ lệ đảm bảo an toàn, mục đích vay nước ngoài…
Việc lấy ý kiến dự thảo Thông tư sửa đổi được NHNN tiến hành trong bối cảnh nhiều ngân hàng và doanh nghiệp những năm qua có xu hướng gia tăng vay nước ngoài để tận dụng mặt bằng lãi suất thấp trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, một số doanh nghiệp tăng vay vốn từ công ty mẹ, công ty thành viên ảnh hưởng đến chỉ tiêu tổng hạn mức rút vốn ròng trung, dài hạn và mức tăng dư nợ vay ngắn hạn được Thủ tướng phê duyệt hàng năm.
Để kiểm soát và duy trì các ngưỡng nợ an toàn được Quốc hội phê duyệt, Thủ tướng giao NHNN quy định chặt chẽ hơn đối với việc vay vốn nước ngoài của khối tư nhân, vốn không được Chính phủ bảo lãnh.
Tiềm ẩn rủi ro khi doanh nghiệp tăng vay vốn nước ngoài mà thiếu kiểm soát
Theo các chuyên gia, doanh nghiệp Việt Nam đã thành công nhờ huy động vốn giá rẻ từ quốc tế, hỗ trợ rất nhiều trong sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp.
Trong đó, Vingroup là doanh nghiệp điển hình của Việt Nam thành công trong việc huy động vốn từ thị trường quốc tế. Chỉ tính từ năm 2013 đến năm 2019, tập đoàn này đã thực hiện 17 giao dịch huy động vốn từ các tổ chức nước ngoài với số tiền huy động được lên đến 7,6 tỷ USD.
Ngoài ra, Vingroup đang xem xét đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng tại Mỹ đối với Công ty sản xuất ô tô Vinfast với số vốn huy động dự kiến là 2 tỷ USD. Hay hãng Bamboo Airways có kế hoạch huy động 200 triệu USD thông qua IPO tại Mỹ bằng việc phát hành 5-7% cổ phần.
Cùng với những kế hoạch phát hành cổ phiếu, niêm yết trái phiếu ra thị trường quốc tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam cũng đã huy động vốn thành công qua các hợp đồng tài trợ, vay vốn từ các tổ chức quốc tế. Theo đó, vào đầu tháng 3/2021, HDBank đã ký kết thành công hợp đồng vay vốn trị giá 71 triệu USD (khoảng 1.700 tỷ đồng) từ Ngân hàng Thương mại Quốc tế Mega (Đài Loan). Ngoài ra, HDBank còn đạt nhiều thỏa thuận vay vốn từ các định chế tài chính toàn cầu như JP Morgan Chase, Ngân hàng Công thương Trung Quốc, Ngân hàng Phát triển châu Á,…
Mới đây, Công ty Chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng vừa ký hợp đồng vay vốn trị giá 30 triệu USD (hơn 690 tỷ đồng) với nhóm 4 ngân hàng Đài Loan đó là Union Bank of Taiwan; Taichung Commercial Bank - Labuan Branch; Taishin International Bank và Huanan Commercial Bank; Công ty Chứng khoán MB (MBS) vay 10 triệu USD từ Ngân hàng Kookmin (KB) – Chi nhánh Hồng Kông để bổ sung vốn lưu động cho hoạt động kinh doanh…
Với mục tiêu phát triển sản xuất toàn diện, duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao theo định hướng phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2021 - 2030, xu hướng doanh nghiệp tăng vay vốn nước ngoài là không tránh khỏi. Dù vậy vẫn tiềm ẩn những rủi ro.
Thống kê hiện nay cho thấy nợ khu vực tư nhân rơi vào khoảng 138% - 140% GDP nền kinh tế. Mức nợ tư này tương đối cao so với khu vực tư của nhiều nước. Nếu khu vực tư tiếp tục trả được nợ, không gây ra các rủi ro khác thì không vấn đề gì. Nhưng nếu khu vực tư không trả được nợ sẽ rơi vào bài toán giống như các doanh nghiệp phát hành trái phiếu không trả được, hay các doanh nghiệp vay nợ, dùng đòn bẩy tài chính lớn nhưng không trả được thì sẽ là câu chuyện lớn.
Có trường hợp bên đi vay nhận chuyển nhượng dự án hoặc mua cổ phần, mua phần vốn góp của doanh nghiệp khác nhưng không nhằm mục tiêu phát triển dự án, quản lý doanh nghiệp mà tiếp tục chuyển nhượng dự án, bán cổ phần cho bên thứ ba, thì hoạt động mua đi bán lại cũng có thể tạo bong bóng giá, không tạo ra giá trị thực cho nền kinh tế và cần bị hạn chế.
Theo Quyết định số 460/QĐ-TTg ngày 14/4/2022 phê duyệt Chiến lược nợ công đến năm 2030 (Chiến lược) do Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái ký, dự kiến đến năm 2030, nợ công không quá 60% GDP, nợ Chính phủ không quá 50% GDP.
Về định hướng huy động và sử dụng vốn vay, Chiến lược nêu rõ, điều hành nợ chính quyền địa phương trong phạm vi bội chi ngân sách địa phương được Quốc hội phê duyệt, đảm bảo trong hạn mức dư nợ theo Luật Ngân sách nhà nước. Kiểm soát tốc độ tăng dư nợ bảo lãnh Chính phủ không vượt quá tốc độ tăng GDP của năm trước. Ngoài ra, kiểm soát chặt chẽ nợ nước ngoài tự vay tự trả của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, đảm bảo chỉ tiêu nợ nước ngoài quốc gia trong giới hạn cho phép.
Để kiểm soát được mức vay nước ngoài tự vay tự trả, đảm bảo hạn mức hàng năm duy trì các ngưỡng nợ an toàn được Quốc hội phê duyệt, Thủ tướng Chính phủ giao NHNN nghiên cứu xây dựng phương án quy định điều kiện vay chặt chẽ đối với hoạt động vay, trả nợ nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh. Do đó, NHNN vừa đưa ra dự thảo thay thế cho Thông tư 12/2014/TT-NHNN, quy định điều kiện vay nước ngoài của doanh nghiệp không được Chính phủ bảo lãnh theo hướng “siết” hơn.
Theo các chuyên gia, áp dụng trần “chi phí toàn bộ” cho nợ nước ngoài tự trả nhằm giới hạn chỉ những người vay có uy tín tín dụng và có thể tiếp cận nguồn vốn với chi phí hợp lý mới được vay nước ngoài. Bên cạnh đó, yêu cầu bảo hiểm rủi ro tỷ giá, hạn chế dư nợ vay cho các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao, áp dụng mức trần chi phí vay… là cần thiết.
Thực tế, các tổ chức chấm điểm tín nhiệm không chỉ xem xét tình hình trả nợ của Chính phủ, mà còn đối với cả công ty tư nhân. Khối tư nhân vay nước ngoài càng lớn càng tác động đến điểm tín nhiệm quốc gia, đẩy lãi suất lên cao ngay cả đối với các khoản vay của Chính phủ. Dù Chính phủ không phải chịu trách nhiệm chi trả, thì trong trường hợp doanh nghiệp tư nhân vỡ nợ vẫn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nền tài chính trong nước.
Đáng chú ý, dự thảo lần này của NHNN có đề cập đến hoạt động vay vốn nước ngoài của doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.