QTDND là tổ chức tín dụng (TCTD) do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một số hoạt động TCTD theo quy định của Luật Các TCTD và Luật Hợp tác xã với mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Các QTDND thường có quy mô hoạt động nhỏ trên một địa bàn giới hạn nhỏ hẹp, không đồng đều giữa các QTDND, khả năng chống đỡ rủi ro hạn chế, dễ bị ảnh hưởng bởi biến động thị trường. Tính đến nay, hệ thống QTDND có 1.181 quỹ phân bổ tại 57 tỉnh, thành phố trong cả nước.
Phân tích tình hình tài chính của QTDND là quá trình kiểm tra, đối chiếu, so sánh các số liệu, tài liệu về tình hình tài chính hiện hành và trong quá khứ nhằm mục đích đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai. Cần lưu ý rằng, nguồn vốn hoạt động chính của QTDND là vốn huy động, vốn chủ sở hữu chiếm tỷ lệ rất nhỏ nhưng có vai trò quan trọng trong đảm bảo an toàn. Vì thế, khi phân tích tình hình tài chính QTDND cần lưu ý đến việc sử dụng chỉ số vốn chủ sở hữu để so sánh, đánh giá. Bên cạnh đó, kết quả giám sát QTDND trong thời gian qua cho thấy, các QTDND được đặt vào kiểm soát đặc biệt (KSĐB) xuất phát từ rủi ro hoạt động chiếm tỷ trọng khá lớn trong số các QTDND được đặt vào KSĐB nên việc phân tích QTDND cần chú ý đến phát hiện rủi ro hoạt động của QTDND.
Phân tích tình hình tài chính có những vai trò khác nhau đối với từng đối tượng sử dụng thông tin, cụ thể:
Đối với người quản trị, điều hành QTDND, phân tích tình hình tài chính giúp nắm được thực trạng của QTDND và xây dựng kế hoạch kinh doanh có hiệu quả trong thời gian tới.
Đối với các cơ quan quản lý và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN), việc phân tích tình hình tài chính của QTDND giúp đánh giá được các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của QTDND, để có các khuyến nghị, đề xuất nhằm điều chỉnh hoạt động của QTDND theo hướng an toàn hơn, đảm bảo lợi ích của người gửi tiền. Đối với cơ quan chủ quản TCTD Nhà nước (NHNN), việc phân tích tài chính QTDND nói riêng, cả hệ thống TCTD nói chung là một cơ sở để đánh giá rủi ro hệ thống và giúp NHNN nghiên cứu đưa ra các thay đổi về hành lang pháp lý để giữ hệ thống TCTD phát triển một cách ổn định, tránh rủi ro, ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia.
Theo hướng dẫn của Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI), một số phương pháp được sử dụng để phát hiện sớm và can thiệp kịp thời bao gồm:
Một là, các hệ thống cảnh báo sớm (Early Warning System) thường dựa trên việc sử dụng những mô hình thống kê khác nhau để ước lượng khả năng đổ vỡ hoặc mức độ khó khăn về tài chính trong một khoảng thời gian nhất định, hoặc để dự đoán về việc mất khả năng thanh toán trong tương lai bằng việc ước lượng đổ vỡ tiềm năng. Các mô hình thống kê thường dùng để xác định các rủi ro có thể gây ra các tình hình tiêu cực trong tương lai đối với TCTD. Mục tiêu của các hệ thống này là xác định kịp thời rủi ro tiềm tàng tại TCTD có vấn đề, để các cơ quan có thẩm quyền liên quan có thể hành động, tối thiểu hóa tổn thất hoặc khả năng tổn thất bắt nguồn từ những rủi ro này. Bất lợi chính của những mô hình này là việc không có khả năng ghi nhận những nhân tố định tính (ví dụ như chất lượng quản lý, kiểm soát nội bộ, các thông lệ về quản trị rủi ro), và không thể xem xét các tác động của các nhân tố môi trường và cạnh tranh.
Hai là, các hệ thống xếp hạng giám sát như CAMELS, CAEL (tại Mỹ,...) PATROL (tại Ý), ORAP (tại Pháp),... có thể dựa vào cả những kết quả kiểm tra tại chỗ (xếp hạng kiểm tra tại chỗ) và phân tích từ xa các thông tin quản lý và các thông tin sẵn có khác bao gồm cả các báo cáo kiểm tra tại chỗ (xếp hạng kiểm tra từ xa). Các hệ thống xếp hạng giám sát cung cấp một khuôn khổ toàn diện được cấu trúc. Thông tin định tính và định lượng được thu thập và phân tích một cách thống nhất, việc phân tích tập trung vào các tình trạng khác “bình thường”.
Ba là, hệ thống đánh giá rủi ro TCTD toàn diện, trong đó một TCTD hay tập đoàn TCTD được chia thành các khối kinh doanh chính và từng khối được đánh giá về tất cả các rủi ro kinh doanh. Mỗi tiêu chuẩn đánh giá được gán các điểm số, các điểm số này được cộng lại cho đến mức cao hơn và thu được đánh giá cuối cùng hay điểm số cho TCTD,tập đoàn TCTD đó.
Bốn là, các chỉ số phản ánh những yếu kém tiềm tàng.
Đối với việc phát hiện TCTD có vấn đề, việc bổ sung các chỉ số tầm vi mô vào các chỉ số tầm vĩ mô có thể là hữu ích. Các chỉ số tầm vi mô bao gồm các chỉ số an toàn vi mô gộp (AMPIs), các chỉ số dựa trên cơ sở thị trường (MBIs) và các chỉ số kinh tế vĩ mô (MEIs). Khung khổ AMPI do IMF khuyến nghị dựa trên việc đánh giá 6 nhóm chỉ số gộp: Đủ vốn; chất lượng tài sản; lành mạnh về quản lý; thu nhập và khả năng sinh lợi; thanh khoản; độ nhạy với rủi ro.
Các chỉ số tổng hợp cung cấp thông tin liên quan đến các xu hướng rủi ro trong các nhóm TCTD và toàn bộ lĩnh vực tài chính. Các chỉ số này được tính toán từ bảng cân đối kế toán của TCTD riêng lẻ và thông tin tài chính chi tiết khác; sau đó được tổng hợp và sử dụng để phát hiện các xu hướng mang tính hệ thống và các yếu kém của các TCTD riêng lẻ. Trong thực tế, các cơ quan giám sát sử dụng các chỉ số tương tự dù chi tiết có thể thay đổi. Thêm nữa, có hai phương pháp phát hiện sớm định lượng được khuyến nghị sử dụng để đánh giá hoạt động tính dụng và dự đoán vỡ nợ là: Mô hình KMV của Moody và mô hình Z-scores.
Để thực hiện việc phân tích tình hình tài chính QTDND, BHTGVN đang thực hiện theo quy trình gồm các bước chính sau:
Thứ nhất, thu thập xử lý thông tin đầu vào: Dữ liệu BHTGVN sử dụng chính trong quá trình công tác phân tích tình hình tài chính của QTDND là thông tin BHTGVN nhận được từ NHNN theo quy định tại Thông tư 34/2016/TT-NHNN và các văn bản khác có liên quan. Ngoài ra, BHTGVN tự thu thập được thông tin qua các kênh khác như QTDND, các cán bộ của BHTGVN tham gia vào Ban KSĐB hoặc qua các phương tiện thông tin đại chúng… Sau khi thu thập thông tin, BHTGVN tiến hành so sánh, kiểm tra, đối chiếu, thống nhất và tổng hợp nhằm có nguồn thông tin đầy đủ, chính xác.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thông tin: Việc phân tích đánh giá tình hình hoạt động của các QTDND dựa trên các tiêu chí chính về vốn, chất lượng tài sản, kết quả hoạt động kinh doanh, khả năng thanh khoản. Sau đó phân nhóm các QTDND, đặc biệt đối với QTDND đang được KSĐB và các QTDND có vấn đề. Đối với BHTGVN, hiện đang hệ thống chỉ tiêu giám sát áp dụng đối với QTDND, tổ chức tài chính vi mô (TCTCVM) và ngân hàng hợp tác xã (NHHTX), gồm: các chỉ tiêu phân tích tổng thể tình hình hoạt động của NHHTX, QTDND và TCTCVM; hệ thống chỉ tiêu giám sát được xây dựng theo mô hình CAMEL; hệ thống chỉ tiêu đánh giá tình hình chấp hành quy định của pháp luật về đảm bảo an toàn trong hoạt động; hệ thống chỉ tiêu theo mô hình PEARLS (áp dụng đối với hệ thống QTDND). Mô hình PEARLS là hệ thống được thiết kế để giám sát hiệu quả hoạt động tài chính cho riêng các tổ chức nhận tiền gửi, đặc biệt là các tổ chức tài chính có quy mô nhỏ như QTDND.
Thứ ba, trên cơ sở phân tích, đánh giá thông tin, tiến hành lập báo cáo định kỳ hoặc đột xuất khi có yêu cầu.
Thứ tư, dựa vào kết quả thực hiện phân tích tình hình tài chính của QTDND, BHTGVN sẽ thực hiện xử lý kết quả: Tham gia phối hợp, đề xuất, kiến nghị với NHNN, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố về việc giám sát, kiểm tra, xử lý đối với QTDND có vấn đề, đồng thời phối hợp với NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trong việc thực hiện quy định tại Quy chế hướng dẫn việc cung cấp thông tin.
Có thể nói, với những kết quả đánh giá, phân tích tình hình tài chính của QTDND, BHTGVN đã đưa ra những kiến nghị, đề xuất đối với NHNN kịp thời, đóng góp vào công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động QTDND. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, số lượng QTDND được đặt vào KSĐB vẫn đang tăng lên, do đó, đối với BHTGVN nói riêng và các cơ quan quản lý nói chung, cần quan tâm hơn nữa đến việc nâng cao hiệu quả công tác phân tích tình hình tài chính của QTDND để sớm phát hiện ra các rủi ro của các QTDND, từ đó đưa ra được các biện pháp để tránh gây ra các vấn đề nghiêm trọng với các QTDND, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và sự ổn định, an toàn của hệ thống TCTD, nền tài chính quốc gia.
Nhằm nâng cao hiệu quả của công tác phân tích tình hình tài chính của QTDND, BHTGVN cần tập trung vào những nội dung sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục triển khai việc khai thác, trao đổi thông tin với các cơ quan, đơn vị, đầu mối để thu thập được thông tin một cách kịp thời, chính xác và đầy đủ.
Thứ hai, trong phân tích, đánh giá thông tin, BHTGVN cần thường xuyên cập nhật, nghiên cứu văn bản pháp lý liên quan trong nước cũng như những bộ chỉ tiêu tài chính quốc tế làm cơ sở để chỉnh sửa, xây dựng bộ chỉ tiêu đánh giá, phân tích tình hình tài chính của TCTD nói chung cũng như QTDND nói riêng; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, phần mềm đáp ứng yêu cầu tính toán, thống kê, phân tích tình hình tài chính QTDND và chế độ báo cáo theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, xây dựng bộ công cụ đo lường, phân tích rủi ro hoạt động của QTDND. Rủi ro hoạt động là rủi ro hay gặp đối với QTDND hiện nay. Việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, bổ sung bộ chỉ tiêu phân tích mức độ rủi ro hoạt động của QTDND là một yêu cầu quan trọng trong bối cảnh số lượng các QTDND đặt vào tình trạng KSĐB ngày một gia tăng.
Thứ tư, để nâng cao hơn nữa hiệu quả của quá trình phân tích, BHTGVN có thể sử dụng thêm công cụ phân tích dự báo. Các phương pháp như hồi quy, quy hoạch tuyến tính, mô hình kinh tế lượng sẽ giúp dự báo những chỉ tiêu trong báo cáo tài chính, chỉ số tình hình hoạt động đối với từng QTDND cũng như toàn bộ hệ thống QTDND, phục vụ cho việc giám sát trên cơ sở rủi ro. Đây cũng là một nội dung cần quan tâm nghiên cứu, tham khảo từ thông lệ quốc tế và kinh nghiệm của các quốc gia có mô hình tổ chức BHTG tiên tiến.
Thứ năm, tiếp tục tăng cường bồi dưỡng, đào tạo, tập huấn, trao đổi thông tin, kinh nghiệm về phân tích tình hình tài chính QTDND trong nội bộ BHTGVN, trong nước cũng như nước ngoài, đặc biệt khảo sát, học hỏi phương pháp thực hiện việc phân tích tình hình tài chính của các tổ chức BHTG trên thế giới nhằm phát triển nguồn nhân lực cũng như quy trình nội bộ để công tác phân tích tình hình hoạt động QTDND được thực hiện quy mô, bài bản và hiệu quả hơn.
Thứ sáu, bên cạnh các giải pháp đối với BHTGVN, để nâng cao hiệu quả công tác phân tích tình hình tài chính QTDND, hệ thống các QTDND cũng cần tiếp tục nâng cao cơ chế và thực hiện việc kiểm soát nội bộ để theo dõi chặt chẽ các quy trình nghiệp vụ của QTDND, hạn chế các rủi ro trong quá trình hoạt động, đặc biệt là các rủi ro đạo đức, góp phần phát triển QTDND ngày một vững mạnh hơn trong hệ thống tài chính ngân hàng.