Tính đến thời điểm hiện nay, tại Việt Nam, khái niệm về tài sản ảo, tiền ảo chưa được nêu trong bất cứ văn bản quy phạm pháp luật nào. Mặc dù tài sản ảo, tiền ảo đang được giao dịch, nhiều người tham gia nhưng chủ yếu vẫn mang tính chất đầu cơ, xuất hiện nhiều tổ chức, cá nhân lập các máy đào tiền ảo, cũng đã xảy ra nhiều vụ lừa đảo liên quan đến tiền ảo gây mất trật tự, an toàn trong xã hội.
Sự xuất hiện của tiền ảo
Theo định nghĩa của Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) và cũng là thuật ngữ được hiểu và sử dụng thông dụng trên thế giới: “Tiền ảo là một loại tiền số (digital money) không có quản lý, được phát hành bởi những người tạo lập - phát triển (developers) cũng thường là người kiểm soát, và được sử dụng và chấp nhận thanh toán giữa các thành viên của một cộng đồng ảo nhất định”.
Tiền ảo có lẽ gắn liền với khái niệm cộng đồng ảo (virtual communities) - là những nơi trong mạng không gian ảo mà các cá nhân tương tác với nhau. Sự phổ biến của cộng đồng ảo trong những năm gần đây gắn liền với những tiến bộ công nghệ và việc sử dụng Internet ngày càng nhiều trong mọi mặt của đời sống. Trong một vài trường hợp, những cộng đồng này tự tạo và lưu hành những đồng tiền của riêng mình để trao đổi hàng hóa, dịch vụ mà họ cung ứng, qua đó tạo ra chức năng phương tiện trao đổi và đơn vị đo lường giá trị cho chính cộng đồng ảo đó.
Bitcoin là đồng tiền ảo được biết đến rộng rãi nhất hiện nay, được ra đời trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính (xuất phát từ cuộc khủng hoảng nhà đất ở Mỹ) đang bắt đầu lan rộng trên phạm vi toàn cầu vào năm 2008. Đầu tháng 11/2008, nhân vật có tên Satoshi Nakamoto đã đưa lên mạng ý tưởng về đồng tiền ảo Bitcoin. Bitcoin được vận hành bởi một hệ thống máy tính ngang hàng (peer-to-peer) được lập nên bởi các máy tính của người dùng. Satoshi Nakamoto tự tạo ra 50 bitcoin đầu tiên vào ngày 3/1/2009.
Mặc dù Bitcoin thu hút được đông đảo mọi người quan tâm, theo dõi nhưng nó không phải là dạng tiền ảo duy nhất mà chỉ là một trong vô số các hệ thống tiền ảo đang nở rộ trong thời gian qua. Có hai mô hình phát hành tiền ảo là mô hình tiền ảo được phát hành tập trung (centralized) và mô hình được phát hành phi tập trung (decentralized). Trước Bitcoin, hệ thống tiền ảo đã được phát triển nở rộ nhưng nó không đạt được mức độ tín nhiệm lớn từ phía người sử dụng do là mô hình phát hành tập trung, đây là nhược điểm đã được Bitcoin khắc phục. Mô hình tiền ảo phát hành tập trung là mô hình do một tổ chức/cá nhân sáng lập và phát hành (giống vị trí của một ngân hàng trung ương) và số lượng tiền ảo do tổ chức/cá nhân này quyết định. Các tổ chức/cá nhân này có thể tùy thích ấn định số lượng tiền ảo do mình phát hành ra và do đó mà giá trị của các loại tiền ảo này không được đảm bảo, không đạt được độ tín nhiệm từ cộng đồng sử dụng nó.
Việt Nam chưa chấp nhận các loại tiền ảo
Liên quan tới hành vi sử dụng Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác như phương tiện thanh toán tại Việt Nam, Khoản 1, 2 Điều 17 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) năm 2010 quy định: “1. NHNN là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy, tiền kim loại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; 2. Tiền giấy, tiền kim loại do NHNN phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Khoản 6, 7 Điều 4 Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 12/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt quy định phương tiện thanh toán như sau: “6. Phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán bao gồm: Séc, lệnh chi, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, uỷ nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của NHNN; 7. Phương tiện thanh toán không hợp pháp là các phương tiện không thuộc quy định tại khoản 6 Điều này”.
Khoản 6 Điều 6 Nghị định số 101 nói trên quy định về hành vi bị cấm bao gồm: “6. Phát hành, cung ứng và sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp”.
Quy định tại Khoản 6, Điều 26 Nghị định 88/2019/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng thì các hành vi phát hành, cung ứng, sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp (bao gồm cả Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác) sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính mức từ 50-100 triệu đồng:
Bên cạnh đó, theo Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tại Điều 206 sửa đổi về tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng, từ 1/1/2018, người nào thực hiện các hành vi trong đó có hành vi phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán gây thiệt hại về tài sản từ 100 -300 ngàn đồng đến dưới 300 triệu đồng sẽ bị phạt tiền từ 50-300 triệu đồng hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Như vậy, tại Việt Nam không công nhận đồng tiền ảo cũng như Bitcoin là một phương tiện thanh toán, nếu phát hành, tàng trữ, cung ứng sử dụng chúng như một phương tiện thanh toán thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, hiện tại pháp luật Việt Nam chưa có quy định nào điều chỉnh về vấn đề coi đồng tiền ảo và Bitcoin như một loại hàng hóa, một đối tượng để trao đổi mua bán.
Theo ông Phan Dũng Khánh, giảng viên thị trường tài chính Trường Doanh nhân Bizlight, tại Việt Nam việc đầu tư giao dịch Bitcoin hay tiền ảo nói chung vẫn bị cấm nên đây là rủi ro lớn nhất. Chưa kể trong quá trình giao dịch, nếu nhà đầu tư quên mất địa chỉ ví điện tử chứa tiền ảo thì sẽ mất luôn vĩnh viễn vì không ai có thể lấy lại được, từ đó dẫn đến nguy cơ bị đánh cắp tài khoản ví tiền ảo. Điều này hoàn toàn trái ngược với chứng khoán vì được lưu ký tập trung tại Trung tâm lưu ký chứng khoán.
Thúc đẩy hoàn thiện khung pháp lý quản lý tiền ảo
Cũng giống như nhiều quốc gia khác, khung pháp luật của Việt Nam về quản lý, xử lý tiền ảo, tài sản ảo (mã hóa) còn rất sơ khai, nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến lĩnh vực này cần được tiếp tục nghiên cứu, đề xuất hướng hoàn thiện.
Ngày 21/8/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1255/QĐ-TTg phê duyệt Đề án hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo. Theo đó, Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan khẩn trương triển khai thực hiện các nhiệm vụ đã được giao tại Quyết định số 1255.
Về phía NHNN, trước đó đã trình Chính phủ ban hành Nghị định 80/2016/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 101/2014/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt. Trong đó, bổ sung quy định về phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam (không bao gồm bitcoin và các loại tiền ảo) và bổ sung quy định cấm phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp (như bitcoin và các loại tiền ảo tương tự). NHNN cũng nhấn mạnh, việc sử dụng các loại tiền ảo làm phương tiện thanh toán không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Các tổ chức tín dụng (TCTD) không được phép sử dụng các loại tiền ảo như một loại tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán khi cung ứng dịch vụ cho khách hàng.
Trước những diễn biến phức tạp, rủi ro, hệ lụy khó lường và tiêu cực của tiền ảo đối với thị trường Việt Nam, ngày 11/4/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 10/CT-TTg yêu cầu tăng cường quản lý các hoạt động liên quan tới Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác. Trong đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu NHNN chỉ đạo các TCTD, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không được thực hiện các giao dịch liên quan đến tiền ảo trái pháp luật; tăng cường rà soát, báo cáo kịp thời các giao dịch đáng ngờ liên quan tới tiền ảo theo quy định pháp luật. Trong Chỉ thị 10/CT-TTg của Thủ tướng cũng đề cập tới hoạt động đầu tư, mua bán tiền ảo, huy động vốn qua phát hành tiền ảo (ICO), đặc biệt là hoạt động sử dụng tiền ảo để huy động vốn theo phương thức đa cấp ngày càng diễn biến phức tạp, có nguy cơ ảnh hưởng đến sự ổn định thị trường tài chính, trật tự an toàn xã hội và có thể gây rủi ro lớn đối với tổ chức, cá nhân tham gia.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ngày 13/4/2018, Thống đốc NHNN đã ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN về các biện pháp tăng cường kiểm soát các giao dịch, hoạt động liên quan tới tiền ảo. Trong đó yêu cầu các TCTD, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không được cung ứng các dịch vụ thanh toán, thực hiện giao dịch thẻ, cấp tín dụng qua thẻ, hỗ trợ xử lý, thanh toán, chuyển tiền, bù trừ và quyết toán, chuyển đổi tiền tệ, thực hiện giao dịch thanh toán, chuyển tiền qua biên giới liên quan tới giao dịch tiền ảo cho khách hàng do có thể phát sinh những rủi ro về rửa tiền, tài trợ khủng bố, gian lận, trốn thuế.
NHNN cũng đã có cảnh báo nhiều lần về hình thức huy động vốn đa cấp tiền ảo. Cơ quan quản lý cũng nhấn mạnh việc những đồng tiền ảo như Bitcoin hay iFan không phải là đồng tiền thanh toán hợp pháp tại Việt Nam. Đồng nghĩa với việc phát hành, cung ứng, sử dụng Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác làm phương tiện thanh toán là hành vi bị cấm. Và từ 1/1/2018, hành vi phát hành, cung ứng, sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp, bao gồm cả Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm h, Khoản 1, Điều 206 Bộ luật Hình sự 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Về phía Bộ Tài chính, tháng 5/2020, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã quyết định thành lập Tổ nghiên cứu của Bộ Tài chính về tài sản ảo, tiền ảo. Tổ nghiên cứu có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất các nội dung chính sách, cơ chế quản lý theo chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tài chính có liên quan đến tài sản ảo, tiền ảo. Bộ Tài chính đã báo cáo Thủ tướng về việc triển khai Đề án 1255.
Theo kinh nghiệm của các nước, để xây dựng khung pháp lý cho tài sản ảo, tiền ảo, hiện thế giới có 3 xu hướng tiếp cận với tài sản ảo, tiền ảo: Thả nổi, chưa quản lý nhưng có một số khuyến cáo rủi ro; Không thừa nhận, cấm sử dụng và giao dịch; Cho phép sử dụng, giao dịch nhưng quản lý chặt chẽ trong không gian kinh doanh như các sàn giao dịch.
Trong trường hợp cho phép sử dụng, giao dịch, kinh nghiệm từ một số quốc gia cho thấy, nếu tài sản mã hóa về bản chất thỏa mãn các điều kiện như chứng khoán thì thường được quản lý như chứng khoán. Đối với tài sản mã hóa phi chứng khoán, dưới góc độ thuế thì sẽ bị đánh thuế giá trị gia tăng đối với giao dịch tài sản mã hóa.
Một chuyên gia tài chính khuyến nghị, để quản lý tiền ảo, tài sản ảo tại Việt Nam, cần sớm thành lập các chương trình thử nghiệm pháp lý trong từng lĩnh vực cụ thể. Đồng thời, xem xét và đánh giá các mô hình kinh doanh về rủi ro, lợi nhuận, tính khả thi…áp dụng thí điểm trên một nhóm các đối tượng được xác định trước. Dĩ nhiên, không thể không xem xét các điều kiện pháp lý cụ thể, nghiên cứu tính ảnh hưởng, khả thi đến thị trường để từ đó có khung pháp lý điều chỉnh ban đầu…