Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền
Một trong những quan điểm được nêu tại Quyết định 689 là: “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu là yêu cầu khách quan, kế thừa kết quả của giai đoạn trước, khắc phục các tồn tại, hạn chế và chủ động ứng phó với những thách thức trong giai đoạn mới; được thực hiện toàn diện, thận trọng, từng bước, bảo đảm tuân thủ nguyên tắc thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công khai, minh bạch; tận dụng tối đa các nguồn lực tự xử lý của TCTD; giữ vững sự ổn định, an toàn, không để hệ thống các TCTD rơi vào tình trạng khủng hoảng dẫn đến đổ vỡ; bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền”.
Như vậy, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền là một trong những quan điểm chủ đạo của Chính phủ khi xây dựng và ban hành Quyết định 689.
Tại nhóm giải pháp chung của Quyết định 689 có giải pháp “Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, cơ cấu lại và xử lý nợ xấu trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường, theo thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện của Việt Nam”.
Trong đó, về khuôn khổ pháp lý cơ cấu lại, xử lý nợ xấu của TCTD: Nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm tiền gửi và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan theo hướng như sau: (i) Nghiên cứu, xây dựng và bổ sung cơ chế hỗ trợ cho các TCTD tham gia cơ cấu lại các TCTD yếu kém để hạn chế tối đa tác động tiêu cực đến tài chính và hoạt động; (ii) Nghiên cứu, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được tham gia cơ cấu lại TCTD yếu kém; (iii) Nghiên cứu, xây dựng tiêu chuẩn thẩm định giá khoản nợ (trong đó có khoản nợ xấu) nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thẩm định giá khoản nợ, đảm bảo khách quan trong việc thẩm định giá của các khoản nợ (trong đó có khoản nợ xấu).
Sửa Luật Bảo hiểm tiền gửi để nâng cao hơn nữa vai trò Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong tái cơ cấu TCTD
Có thể nói, Luật BHTG số 06/2012/QH13 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18/6/2012 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2013, đánh dấu bước phát triển lớn cũng như vai trò quan trọng của chính sách BHTG tại Việt Nam. Theo đó, các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực BHTG được điều chỉnh tại một đạo luật riêng, độc lập. Trước đây, những quan hệ này được điều chỉnh tại nhiều văn bản dưới luật khác nhau của các cấp có thẩm quyền.
Luật BHTG ra đời đã quy định đầy đủ các nội dung về hoạt động BHTG như: Mục đích, nguyên tắc BHTG, cơ quan quản lý Nhà nước về BHTG, người được BHTG, quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG, tổ chức tham gia BHTG, chứng nhận tham gia BHTG, phí BHTG, thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, hạn mức trả tiền bảo hiểm…
Triển khai các quy định tại Luật BHTG, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động BHTG, đặc biệt là các văn bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) về BHTG, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) đã từng bước đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động, tích cực tham gia xử lý quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) yếu kém, quản lý an toàn nguồn vốn, nâng cao năng lực tài chính. Đặc biệt, BHTGVN luôn chú trọng việc giám sát, kiểm tra đối với các QTDND.
Thông qua các nghiệp vụ giám sát, kiểm tra các tổ chức tham gia BHTG, BHTGVN chủ động kiến nghị NHNN xem xét xử lý nếu phát hiện vi phạm quy định pháp luật trong lĩnh vực BHTG hoặc những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng. Đồng thời, BHTG Việt Nam cũng tích cực đẩy mạnh, đa dạng hóa các kênh tuyên truyền chính sách BHTG, trong đó có Luật BHTG nhằm giữ vững niềm tin của người gửi tiền đối với các tổ chức tham gia BHTG, ngăn ngừa các nguy cơ về rút tiền hàng loạt khi xảy ra tin đồn thất thiệt đe dọa an toàn hệ thống ngân hàng. Khi TCTD gặp sự cố mất thanh khoản, BHTG Việt Nam cũng thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời cho người gửi tiền để niềm tin ấy luôn được củng cố vững chắc.
Có thể nói, những năm qua, với việc triển khai có hiệu quả Luật BHTG - hành lang pháp lý cao nhất cho hoạt động BHTG taị Việt Nam, quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền luôn được bảo đảm, sự ổn định của hệ thống các TCTD cũng được duy trì.
Sự ra đời của Luật BHTG đã cho thấy sự phát triển tích cực của chính sách BHTG tại Việt Nam, khắc phục được những tồn tại, hạn chế của hệ thống pháp luật trước đó về BHTG, bổ sung những quy định có hiệu lực thực thi cao hơn và tiếp thu nhiều tiến bộ từ thông lệ quốc tế về BHTG. Tuy nhiên, qua 10 năm triển khai, Luật BHTG cũng đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế, do Luật chưa quy định, quy định chưa rõ hoặc có quy định nhưng không thống nhất với luật khác …
Trong đó, một số quy định tại Luật BHTG cần phải được sửa đổi, bổ sung để đảm bảo thống nhất với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD, đồng thời tạo cơ sở để BHTG Việt Nam thực hiện được các nhiệm vụ mới được giao.
Cụ thể, ngày 20/11/2017, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD (Luật Các TCTD sửa đổi (2017)), trong đó, BHTG Việt Nam được giao thêm một số nhiệm vụ mới như: Phối hợp với Ban Kiểm soát đặc biệt đánh giá tính khả thi của phương án phục hồi công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), tổ chức tài chính vi mô được kiểm soát đặc biệt; phối hợp với Ban Kiểm soát đặc biệt xây dựng phương án phá sản TCTD được kiểm soát đặc biệt, cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt và mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ.
Như vậy, các quy định pháp luật về tham gia cơ cấu lại TCTD dù đã bước đầu tạo điều kiện cho BHTG Việt Nam phát huy vai trò trong tái cơ cấu hệ thống các TCTD, nhưng các quy định về quyền hạn của tổ chức BHTG tại Luật BHTG chưa thống nhất, đồng bộ với hệ thống văn bản pháp lý hiện hành về tái cơ cấu, cản trở sự tham gia có hiệu quả của BHTG Việt Nam đối với tiến trình này.
Cụ thể: Về quyền và nghĩa vụ của tổ chức BHTG, tại khoản 2 Điều 148 và khoản 1 Điều 152a Luật Các TCTD sửa đổi (2017) quy định, tổ chức BHTG tham gia vào quá trình xây dựng các phương án tái cơ cấu QTDND. Tuy nhiên, quy định quyền và nghĩa vụ tổ chức BHTG tại Luật BHTG chưa đảm bảo để tổ chức BHTG có thể tham gia sâu hơn vào quá trình tái cơ cấu TCTD (ví dụ như tham gia hỗ trợ kiểm tra, giám sát đối với QTDND, tham gia quá trình xây dựng các phương án tái cơ cấu QTDND, cho vay đặc biệt đối với QTDND bị kiểm soát đặc biệt…).
Về cho vay đặc biệt đối với TCTD bị kiểm soát đặc biệt, Luật Các TCTD sửa đổi (2017) quy định BHTG Việt Nam cho vay đặc biệt đối với công ty tài chính, QTDND, tổ chức tài chính vi mô; BHTG Việt Nam mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ theo quyết định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Tuy nhiên, Luật BHTG chưa quy định các nội dung này.
Luật BHTG cũng chưa có quy định NHNN quyết định việc BHTG Việt Nam mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ. Trong khi đó, nội dung này được quy định tại Luật Các TCTD sửa đổi (2017).
Phấn đấu đến năm 2025 giảm số lượng TCTD, xử lý cơ bản các ngân hàng yếu kém
Cũng tại Quyết định 689, một quan điểm trong tái cơ cấu hệ thống các TCTD là “coi hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, thể chế là giải pháp trọng tâm nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn để cơ cấu lại hệ thống các TCTD, xử lý các TCTD yếu kém an toàn, hiệu quả, minh bạch”.
Về mục tiêu tổng quát tại Quyết định 689: (i) Tạo bước chuyển rõ rệt, thực chất trong cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu; phấn đấu đến năm 2025 giảm số lượng các TCTD, xử lý cơ bản các ngân hàng yếu kém, không để phát sinh những ngân hàng yếu kém mới, hệ thống các TCTD lành mạnh và phát triển bền vững; (ii) Phát triển hệ thống các TCTD theo hướng các TCTD trong nước đóng vai trò chủ lực, hoạt động lành mạnh, chất lượng, hiệu quả, công khai, minh bạch, đáp ứng các chuẩn mực về an toàn hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật và tiệm cận với thông lệ quốc tế, hướng tới đạt trình độ phát triển của Nhóm 4 nước dẫn đầu khu vực ASEAN; (iii) Đẩy mạnh xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh; nâng cao năng lực tài chính của TCTD; ngăn ngừa tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các TCTD có liên quan.
Mục tiêu cụ thể:
(i) Triển khai thí điểm áp dụng Basel II theo phương pháp nâng cao tại các NHTM Nhà nước nắm cổ phần chi phối và NHTM cổ phần có chất lượng quản trị tốt đã hoàn thành áp dụng Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn vào cuối năm 2025; phấn đấu đến năm 2023, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của các NHTM đạt tối thiểu 10 - 11%; đến năm 2025, đạt tối thiểu 11 - 12%;
(ii) TCTD phải có biện pháp bảo đảm có số vốn điều lệ đến năm 2025 như sau:
- Đối với TCTD đang hoạt động (không bao gồm NHTM, Công ty tài chính (CTTC), Công ty cho thuê tài chính (CTCTTC) yếu, yếu kém/được kiểm soát đặc biệt/thực hiện phương án cơ cấu lại do cấp có thẩm quyền phê duyệt):
+ Đối với các NHTM: (i) Nhóm NHTM trong nước có tiềm lực tài chính, năng lực cạnh tranh, quy mô lớn: vốn điều lệ tối thiếu đạt 15.000 tỷ đồng; (ii) Nhóm NHTM trong nước có tiềm lực tài chính, năng lực cạnh tranh, quy mô nhỏ và trung bình và NHTM có vốn nước ngoài: vốn điều lệ tối thiểu đạt 5.000 tỷ đồng;
+ Đối với CTTC: vốn điều lệ tối thiểu đạt 750 tỷ đồng;
+ Đối với CTCTTC: vốn điều lệ tối thiểu đạt 450 tỷ đồng.
- Đối với NHTM, CTTC, CTCTTC yếu, yếu kém/được kiểm soát đặc biệt/thực hiện phương án cơ cấu lại do cấp có thẩm quyền phê duyệt: phương án tăng vốn thực hiện theo phê duyệt của cấp có thẩm quyền.
(iii) Phấn đấu có ít nhất từ 2 - 3 NHTM nằm trong top 100 ngân hàng lớn mạnh nhất (theo tiêu chí sức mạnh) trong khu vực châu Á; hoàn thành việc niêm yết cổ phiếu của các NHTM cổ phần trên thị trường chứng khoán Việt Nam và phấn đấu có 1 - 2 ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán quốc tế.
(iv) Phát triển các mô hình ngân hàng số, gia tăng tiện ích, trải nghiệm khách hàng và thực hiện mục tiêu tài chính toàn diện, phát triển bền vững trên cơ sở thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến trong quản trị điều hành và cung ứng sản phẩm, dịch vụ theo hướng tự động hóa quy trình, tối ưu hóa hoạt động nghiệp vụ.
(v) Ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 để nâng cấp, phát triển cơ sở hạ tầng thanh toán, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), đáp ứng nhu cầu thanh toán một cách thuận tiện, hiệu quả của tổ chức, cá nhân; đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật trong hoạt động TTKDTM và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng dịch vụ thanh toán.
(vi) Phấn đấu tăng tỷ trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập của các NHTM lên khoảng 16 - 17% vào cuối năm 2025. Tăng tỷ trọng vốn tín dụng ngân hàng đầu tư vào các ngành sản xuất và tiêu dùng ít các-bon.
(vii) Phát triển hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) theo đúng mục tiêu, tôn chỉ của loại hình tổ chức tín dụng là hợp tác xã theo quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế; hoạt động an toàn, hiệu quả, ổn định và bền vững, đáp ứng nhu cầu về vốn, nâng cao khả năng tiếp cận tài chính của các thành viên QTDND, hướng tới mục tiêu chủ yếu là tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên phục vụ sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống, đặc biệt ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa và địa bàn có nhiều khó khăn.
(viii) Phát triển hệ thống các tổ chức tài chính vi mô hoạt động an toàn, hiệu quả, bền vững, hướng tới mục tiêu phục vụ người nghèo, người thu nhập thấp, phụ nữ và doanh nghiệp siêu nhỏ với các sản phẩm, dịch vụ tài chính đa dạng, linh hoạt, phù hợp, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đảm bảo an sinh xã hội và giảm nghèo bền vững.
(ix) Hoàn thiện mô hình, chức năng và cơ chế hoạt động của Ngân hàng Hợp tác xã (NHHTX) có đủ năng lực tài chính, tăng cường năng lực quản trị, điều hành, kiểm soát, hoạt động an toàn, hiệu quả, bền vững để thực hiện tốt vai trò là ngân hàng của tất cả các QTDND (thực hiện tính liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính, điều hòa vốn, đảm bảo an toàn hệ thống các QTDND), hỗ trợ thúc đẩy phát triển các loại hình kinh tế tập thể là hợp tác xã khác trên phạm vi toàn quốc.
(x) Phấn đấu đến cuối năm 2025, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống các TCTD, nợ xấu đã bán cho Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) chưa được xử lý, thu hồi và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu ở mức dưới 3% (không bao gồm các NHTM yếu kém).