Tín dụng tăng trưởng theo đà hồi phục của nền kinh tế
Căn cứ mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát của Quốc hội và Chính phủ, NHNN định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2022 khoảng 14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến tình hình thực tế và thông báo chỉ tiêu đối với từng TCTD; chỉ đạo TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả; kiểm soát chặt tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Theo Phó Thống đốc Đào Minh Tú, đến cuối tháng 3, tín dụng tăng 5,04% so với cuối năm 2021. Nếu so với mức tăng 2,16% của quý 1/2021 thì con số trên là tín hiệu khả quan. Tốc độ tăng tín dụng cao gấp 2,3 lần năm ngoái chứng tỏ nền kinh tế đang phục hồi tích cực, các biện pháp phòng chống dịch và phục hồi kinh tế của Chính phủ đang phát huy hiệu quả. Đời sống sinh hoạt, sản xuất kinh doanh của người dân và các doanh nghiệp cũng đã trở lại bình thường. Cùng với các giải pháp quyết liệt của Chính phủ trong khôi phục nền kinh tế, thông qua tăng trưởng tín dụng này chính là dấu hiệu tích cực trong khôi phục phát triển của các doanh nghiệp. Ông nhấn mạnh: “Mức tăng như trên so với các năm trước là mức rất cao. Cuối năm chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh để mức tín dụng sao cho đảm bảo phù hợp mục tiêu chính sách tiền tệ vĩ mô cũng như kiểm soát lạm phát”.
Về định hướng điều hành chính sách tín dụng thời gian tới, NHNN cho biết, căn cứ mục tiêu Chính phủ và các nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm 2022 tại Chỉ thị 01/CT-NHNN ngày 13/01/2022, NHNN yêu cầu các TCTD thực hiện tốt các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng năm 2022 nhằm kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế và đảm bảo sự phát triển an toàn, bền vững của các TCTD.
Theo đó, NHNN sẽ chú trọng triển khai một số giải pháp điều hành tín dụng ngành, lĩnh vực cụ thể như: Tổ chức triển khai kịp thời chính sách hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh sau khi Chính phủ ban hành Nghị định; điều hành tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, phù hợp theo hướng mở rộng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, tín dụng tiêu dùng với mức lãi suất hợp lý, đảm bảo an toàn vốn vay, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế xã hội; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục chỉ đạo các TCTD kiểm soát chặt chẽ việc cấp tín dụng và chất lượng tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản, đặc biệt là cấp tín dụng với mục đích đầu tư, kinh doanh bất động sản; tập trung đầu tư nguồn vốn tín dụng vào các dự án, phương án vay vốn khả thi, đảm bảo tính pháp lý, có thanh khoản tốt, khách hàng có khả năng trả nợ vay đầy đủ và đúng hạn, đáp ứng nhu cầu thực của thị trường bất động sản; các dự án nhà ở xã hội, các dự án nhà ở thương mại giá rẻ, có hiệu quả cao, tiêu thụ tốt, đáp ứng nhu cầu thực của người dân.
Tiếp tục đánh giá hoạt động tín dụng đối với ngành, lĩnh vực, vai trò, khả năng phục hồi, phát triển bền vững của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế để chỉ đạo các TCTD có chính sách ưu tiên, hỗ trợ và tập trung tín dụng nhằm góp phần khôi phục và phát triển kinh tế. Phối hợp với các bộ, ngành tháo gỡ vướng mắc trong việc triển khai các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Chỉ đạo TCTD tiếp tục triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. NHNN tiếp tục tái cấp vốn đối với Ngân hàng Chính sách xã hội để cho vay người sử dụng lao động vay trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất theo Nghị quyết 68/NQ-CP đến hết 31/3/2022. Chỉ đạo các TCTD tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong việc tiếp cận tín dụng, đáp ứng nhu cầu hợp pháp của người dân, góp phần hạn chế “tín dụng đen”. Tăng cường phối hợp với các địa phương đẩy mạnh chương trình kết nối ngân hàng- doanh nghiệp. Triển khai các chương trình tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với các ngành, lĩnh vực. Kịp thời phối hợp các Bộ, ngành liên quan xử lý khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện.
Đẩy mạnh triển khai nhiệm vụ của ngành ngân hàng trong các Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG xây dựng nông thôn mới, CTMTQG giảm nghèo bền vững, CTMTQG phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số) theo Quyết định phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền. Hỗ trợ và tạo điều kiện để các TCTD, Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện tốt các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ...
Cần thiết kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu
Trao đổi xung quanh Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của cácTCTD (Nghị quyết 42), Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho hay, Nghị quyết 42 có tác động tích cực, số nợ xấu đã được xử lý trong các năm qua đạt khoảng hơn 380.000 tỷ đồng. Đây là khối lượng vốn lớn đã được giải phóng, quay vòng, tái tạo nguồn vốn cho nền kinh tế, giảm thiểu nhiều lãng phí, mang lại cả lợi ích chung và lợi ích cho hệ thống ngân hàng, doanh nghiệp.
Tuy nhiên, Nghị quyết 42 chỉ có thời hạn hiệu lực trong 5 năm. NHNN đã tham mưu cho Chính phủ, từ đó báo cáo Bộ Chính trị, Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) nghiên cứu ban hành Luật Xử lý nợ xấu thời gian tới. Nhưng để có luật cần có thời gian nghiên cứu khảo sát đánh giá tác động. Trong khi đó, nếu không kéo dài Nghị quyết 42 sẽ có "khoảng trống" khiến một số khoản nợ thuộc đối tượng không có cơ sở pháp lý để giải quyết. Hơn nữa, tình hình dịch 2 năm qua tác động đến nhiều doanh nghiệp, lĩnh vực, khiến nợ xấu sẽ xuất hiện thêm. Nếu tiếp tục kéo dài Nghị quyết 42 sẽ giúp có cơ sở pháp lý xử lý khoản nợ phát sinh, tạo sự tích cực, lợi ích chung cho doanh nghiệp, xã hội, ngân hàng. Do đó, Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm thủ tục cho phép kéo dài Nghị quyết 42 trong thời gian tới.
Mới đây, ngày 25/3, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 45/NQ-CP về việc thông qua đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về việc kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của cácTCTD.
Theo đó, Chính phủ giao NHNN chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan khẩn trương nghiên cứu, xây dựng dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD để trình Quốc hội theo quy định, bảo đảm chặt chẽ, chất lượng, hiệu quả, kịp thời, đúng trình tự, thủ tục và quy định pháp luật.
Trước đó, ngày 7/3/2022, NHNN cũng đã họp lấy ý kiến góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD. Theo dự thảo, NHNN đề nghị thời gian áp dụng Nghị quyết số 42 của Quốc hội kéo dài đến ngày 15/8/2025 thay vì hạn cuối là 15/8/2022.
Thực tế, việc ban hành Luật về xử lý nợ xấu của các TCTD là rất cần thiết, nhằm thể chế hóa chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc hoàn thiện pháp luật về tái cơ cấu và xử lý nợ xấu của các TCTD. Việc ban hành Luật xử lý nợ xấu của các TCTD nhằm tạo hành lang pháp lý lâu dài, ổn định cho hoạt động xử lý nợ xấu, đảm bảo tạo cơ chế xử lý đồng bộ, thống nhất, hiệu quả, khả thi của các khoản nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu của TCTD, xử lý triệt để các vướng mắc, khó khăn pháp lý liên quan đến nợ xấu và xử lý nợ xấu.
Trong hoạt động mua bán, xử lý nợ xấu, việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, trong đó cần thiết bổ sung, hoàn thiện và nâng cấp thành Luật xử lý nợ xấu ngay sau khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực nhằm tạo cơ chế xử lý đồng bộ, thống nhất, hiệu quả các khoản nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm các khoản nợ của TCTD. Bên cạnh đó, cần các giải pháp để phát triển thị trường mua bán nợ. Theo đó, cần mở rộng chủ thể tham gia thị trường mua bán, xử lý nợ xấu, xây dựng chính sách thu hút nhà đầu tư nước ngoài; đồng thời mở rộng phương thức mua, bán nợ xấu. Hiện tại, việc mua bán nợ được thực hiện chủ yếu thông qua phương thức hợp đồng, nghĩa là bên mua nợ và bên bán nợ ký kết hợp đồng chuyển giao quyền và nghĩa vụ đối với một hoặc một số khoản nợ cụ thể. Ngoài phương thức này, hiện chưa có cơ chế chuyển các khoản nợ thành một loại hàng hoá có thể chuyển nhượng/giao dịch dễ dàng. Thực tế, tại một số thị trường mua bán nợ phát triển, “chứng khoán hoá” được sử dụng để biến các khoản nợ, đặc biệt là nợ xấu thành chứng khoán phát hành cho nhà đầu tư, qua đó để giải quyết nợ xấu một cách hiệu quả và tạo điều kiện phát triển cho thị trường mua bán nợ. Khuôn khổ pháp lý của Việt Nam hiện nay chưa có quy định về “chứng khoán hóa” khoản nợ. Do đó, trong thời gian tới, để thúc đẩy mua bán khoản nợ và phát triển thị trường mua bán nợ, việc nghiên cứu về cơ chế chứng khoán hóa các khoản nợ là rất cần thiết và các vấn đề cần tập trung xem xét như: Các tổ chức tham gia, trách nhiệm và quyền hạn; việc phối hợp của các cơ quan chức năng trong việc xử lý tài sản bảo đảm nợ vay; việc tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài,...