Động thái trên của người gửi tiền sẽ tác động nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng. Trong ngắn hạn, khả năng thanh khoản của ngân hàng gặp khó khăn và trong dài hạn ngân hàng có nguy cơ không có đủ nguồn vốn hoạt động. Bên cạnh đó, hiệu ứng dây chuyền khiến quy mô rút tiền có thể lan rộng và trong trường hợp này, không hệ thống ngân hàng nào có thể huy động kịp thời lượng tiền mặt để chi trả cho người gửi tiền.
Có thể nói, một trong những khía cạnh quan trọng của khủng hoảng tài chính là khủng hoảng niềm tin. Vì vậy, để giải quyết khủng hoảng, niềm tin chính là vấn đề cần nhận được sự ưu tiên trong quá trình đưa ra các giải pháp chính sách. Trên thực tế, người gửi tiền không đứng một mình trong nỗ lực bảo vệ tài sản của mình. Chính phủ các quốc gia đã và đang thiết lập một loạt cơ chế nhằm đảm bảo ổn định tài chính, trong đó có việc nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi hoặc cam kết bảo vệ toàn bộ tiền gửi của người gửi tiền tại ngân hàng (cam kết chi trả không giới hạn)
Sự cần thiết nâng hạn mức chi trả trong giai đoạn khủng hoảng tài chính
Trong giai đoạn kinh tế phát triển ổn định, hạn mức chi trả thường duy trì ở mức giới hạn đủ thấp nhằm tránh tình trạng rủi ro đạo đức và không gây gánh nặng đối với quỹ bảo hiểm tiền gửi. Theo thông lệ, hạn mức chi trả tối ưu được duy trì trong giới hạn từ 2,5 -> 5 lần GDP bình quân đầu người và bảo vệ được trên 80% tài khoản tiền gửi. Đây là hạn mức đã được tính toán kỹ nhằm phù hợp với mục tiêu hoạt động, năng lực hoạt động và yêu cầu đặt ra đối với tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Thực vậy, hạn mức BHTG quá lớn không phù hợp với mục tiêu bảo vệ người gửi tiền nhỏ, ít hiểu biết về tài chính. Bên cạnh đó, nguồn vốn của tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ không đủ để chi trả cho một ngân hàng có quy mô trung bình đổ vỡ nếu hạn mức không được tính toán phù hợp. Điều quan trọng nhất, hạn mức chi trả lớn sẽ dẫn tới rủi ro đạo đức, khi người gửi tiền có xu hướng tùy tiện lựa chọn bất kỳ ngân hàng nào trả lãi suất cao cho khoản tiền gửi của mình với suy nghĩ, nếu xảy ra vấn đề đã có BHTG lo.
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế, trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính, hạn mức chi trả trung bình toàn thế giới tương đương khoảng 2,5 lần GDP bình quân đầu người. Tỷ lệ trung bình của khu vực Châu Á là 3 lần. Các quốc gia với hệ thống ngân hàng hoạt động rủi ro cao có xu hướng duy trì hạn mức chi trả cao hơn nhằm bảo vệ tốt nhất người gửi tiền.
Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, hạn mức chi trả cần được nâng cao, thậm chí chuyển sang chi trả không giới hạn nhằm duy trì niềm tin và ngăn ngừa tình trạng rút tiền hàng loạt. Việc nâng hạn mức khẳng định cam kết của Chính phủ trong việc bảo vệ người gửi tiền thông qua hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Người gửi tiền nằm trong giới hạn chi trả có xu hướng yên tâm duy trì lượng tiền gửi tại ngân hàng và đây là một trong những điều kiện tiên quyết góp phần ổn định hoạt động ngân hàng.
Nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi trong tổng thể các giải pháp bảo vệ hệ thống ngân hàng
Nâng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi cần được thực hiện đồng bộ trong gói giải pháp do các thành viên tham gia Mạng an toàn tài chính thực hiện nhằm duy trì ổn định hoạt động tài chính ngân hàng. Theo thông lệ quốc tế, các cơ quan chủ yếu tham gia Mạng an toàn tài chính gồm Bộ tài chính, Ngân hàng Trung ương và Tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Các quốc gia, tùy thuộc vào đặc thù cấu trúc hệ thống tài chính của mình có thể trao cho từng thành viên vai trò và trách nhiệm riêng biệt, tuy nhiên, tổng thể chức năng của Mạng an toàn tài chính cần đảm bảo các nội dung: i) xây dựng quy định an toàn và thực hiện giám sát ngân hàng; ii) bảo hiểm tiền gửi; iii) chức năng người cho vay cuối cùng; iv) chức năng xử lý ngân hàng đổ vỡ.
Bảng dưới đây tổng kết mô hình chung các giải pháp do từng thành viên tham gia Mạng an toàn tài chính thực hiện theo chức năng đặc thù riêng của mình và các nhóm giải pháp do các cơ quan phối hợp thực hiện nhằm mục tiêu duy trì ổn định tài chính nói chung và bảo vệ người gửi tiền nói riêng.
Trong khủng hoảng, rủi ro niềm tin khiến luồng tiền gửi không chảy vào ngân hàng, các ngân hàng không cho nhau vay dẫn đến tình trạng đóng băng thanh khoản. Để giải quyết vấn đề trên, Tổ chức bảo hiểm tiền gửi nâng hạn mức chi trả nhằm duy trì và thu hút lượng tiền gửi vào hệ thống ngân hàng. Ngân hàng trung ương cung cấp thanh khoản cho thị trường và làm cầu nối khơi thông những nút tắc trên thị trường liên ngân hàng. Bộ tài chính, với vai trò là cơ quan quản lý nguồn tiền ngân sách, thực hiện cung cấp vốn có thời hạn cho ngân hàng, đồng thời xem xét đến việc nắm giữ lượng cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi hoặc các hình thức chứng khoán vốn khác của ngân hàng.
Bên cạnh đó, các vấn đề chung cũng cần được các cơ quan phối hợp thực hiện chặt chẽ đó là tăng cường kiểm tra, giám sát đối với hệ thống ngân hàng và xử lý một cách êm thấm các ngân hàng đổ vỡ.
Như vậy, trong tổng thể các nhóm giải pháp đồng bộ nhằm chống chọi với khủng hoảng tài chính, vai trò của chính sách nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi là không thể phủ nhận. Thực tế tại một số quốc gia, sau khi nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi, không có ngân hàng nào đổ vỡ và như vậy, chi phí chính sách phải bỏ ra là bằng 0. Đặt trong bức tranh chung, giải pháp về hạn mức bảo hiểm tiền gửi không chỉ bảo vệ người gửi tiền mà còn có ý nghĩa hỗ trợ các giải pháp chính sách khác trong nỗ lực ổn định hệ thống tài chính.
Thực tiễn việc nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại các quốc gia trên thế giới trong thời gian qua
Sau vụ đổ vỡ ngân hàng Northern Rock tại Anh, các nhà hoạch định chính sách đã đạt được sự đồng thuận về việc tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi nhằm duy trì niềm tin và ổn định hoạt động ngân hàng. Tại Mỹ, hạn mức chi trả đã được nâng lên 250 nghìn USD từ mức 100 nghìn USD vào tháng 10/2008. Tại Châu Âu, Hội nghị Bộ trưởng tài chính đã thống nhất nâng mức bảo hiểm tiền gửi áp dụng cho toàn khối lên 50.000 euro và Nghị viện Châu Âu yêu cầu các quốc gia thành viên phải duy trì hạn mức này trong tối thiểu một năm. Xu hướng nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi cũng được nhiều quốc gia trong khu vực Châu Á thực hiện.
Theo số liệu thống kê tại Bảng dưới đây, rất nhiều quốc gia trên thế giới từ các châu lục khác nhau với những đặc thù riêng về trình độ phát triển kinh tế và lịch sử phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi đã cùng nâng hạn mức chi trả hoặc chuyển sang chi trả không giới hạn.
Trong xu thê tăng hạn mức chung, các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á cũng lần lượt tuyên bố tăng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi. Trong đó, Malaysia và Singapore chuyển sang chi trả không giới hạn. Thái Lan với đặc thù mới thành lập tổ chức bảo hiểm tiền gửi cũng thực hiện chi trả không giới hạn ngay từ khi mới thành lập và bắt đầu giảm dần từ năm 2009. Indonesia tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi lên 10 lần, tới mức rất lớn - gần 200.000 USD.
XU HƯỚNG TĂNG HẠN MỨC
CHI TRẢ BẢO HIỂM TIỀN GỬI TẠI ĐÔNG NAM Á
Đơn vị: USD
TT |
Tên quốc gia |
Hạn mức trước đây |
Hạn mức chi trả hiện tại |
1 |
Malaysia |
18.200 |
Chi trả không giới hạn |
2 |
Singapore |
14.500 |
Chi trả không giới hạn |
3 |
Indonesia |
10.000 |
182.000 |
4 |
Phillipines |
5.300 |
10.600 |
5 |
Thái Lan (thành lập vào tháng 10.2008) |
Duy trì chi trả không giới hạn vào năm 2008 và dự kiến giảm dần qua các năm. |
|
6 |
Việt Nam |
2.750 |
2.750 |
7 |
Lào |
NA |
NA |
Việt Nam trong xu hướng nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi của các quốc gia trong giai đoạn khủng hoảng
Theo quy định tại Nghị định 109/2005/NĐ-CP ban hành ngày 24 tháng 8 năm 2005, hạn mức chi trả tại Việt Nam là 50.000.000 VNĐ. Vào thời điểm thiết lập, hạn mức trên tương đương với gần 5 lần GDP bình quân đầu người và bảo vệ được khoảng 90% người gửi tiền. Đây là mức khá cao so với trung bình các quốc gia trên thế giới, phù hợp với quan điểm thận trọng đối với hệ thống ngân hàng trong giai đoạn mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua, Việt Nam là một trong số ít quốc gia Đông Nam Á không tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi. Nhìn chung, nền kinh tế nước ta đã bị tác động nhất định bởi khủng hoảng tài chính tuy nhiên Việt Nam chưa xảy ra đổ vỡ ngân hàng đồng thời chưa có dấu hiệu của tình trạng hoảng loạn trong tâm lý người gửi tiền. Đây là cơ sở cho việc giữ hạn mức bảo hiểm tiền gửi ổn định.
Trong trường hợp khủng hoảng giảm dần và nền kinh tế từng bước phục hồi, việc xem xét điều chỉnh hạn mức bảo hiểm tiền gửi có thể thực hiện theo từng giai đoạn tương ứng với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người và số dư tiền gửi bình quân của người gửi tiền tại ngân hàng. Tuy nhiên, nếu khủng hoảng kéo dài hoặc trầm trọng thêm, việc tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tạm thời với bước tăng lớn là cần thiết vì những lý do:
- Thứ nhất, đây là xu thế chung được cả thế giới áp dụng và đã chứng minh hiệu quả tại nhiều quốc gia, trong đó có các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á có cùng đặc điểm phát triển tương đồng với Việt Nam.
- Thứ hai, trong bối cảnh quốc tế hóa nền kinh tế, việc một quốc gia duy trì hạn mức bảo hiểm tiền gửi thấp sẽ khiến dòng tiền gửi chảy sang quốc gia có hạn mức bảo hiểm tiền gửi cao, tác động đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng nội địa. Đặc biệt khi nền kinh tế gặp khủng hoảng, nguy cơ dịch chuyển càng lên cao do tâm lý đưa luồng tiền đến nơi an toàn của người gửi tiền.
- Thứ ba, việc tăng hạn mức với bước tăng lớn chỉ thực hiện trong quãng thời gian ngắn, thông thường là 02 năm, sau đó cần trở lại hạn mức chi trả thông thường. Điều kiện cho việc quay lại áp dụng hạn mức thông thường là nền kinh tế vượt qua giai đoạn khó khăn. Hạn mức chi trả lớn hoặc bảo đảm toàn bộ trong thời gian dài sẽ dẫn tới vấn đề rủi ro đạo đức và tạo gánh nặng cho quỹ bảo hiểm tiền gửi.
Để kết thúc bài viết, tác giả xin trích dẫn nhận định của chuyên gia OECD sau vụ khủng hoảng ngân hàng Northern Rock tại Anh: “một hệ thống bảo hiểm tiền gửi với hạn mức chi trả thấp, thời hạn chi trả chậm không đảm bảo ngăn ngừa rủi ro rút tiền hàng loạt”. Tại Việt Nam, đây là vấn đề cần được nghiên cứu và đưa ra những giải pháp chính sách hiệu quả, phù hợp với những diễn biến mới của giai đoạn mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Tài liệu tham khảo:
1- International Association of Deposit Insurers (2008), Deposit insurance coverage - Discussion Paper
2- Sebastian Sich (2008), Financial Crisis: Deposit Insurance and Related Financial Safety Net Aspects, OECD
3- Cindy Marks and Walter Yao (2008), Asia Focus: Recent Developments in Asian Deposit Guarantee Programs, Federal Reserve Bank of San Francisco