Đẩy mạnh xử lý nợ xấu của TCTD
Báo cáo cho biết, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội (KT-XH), để tăng cường công tác kiểm soát và xử lý nợ xấu, NHNN đã tổ chức làm việc với các TCTD về kế hoạch xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2022. Theo đó, chỉ đạo các TCTD thực hiện một số giải pháp chính như tăng cường kiểm soát, xử lý nợ xấu và hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh; khuyến khích TCTD trả cổ tức bằng cổ phiếu, hạn chế thực hiện chia cổ tức bằng tiền mặt để nâng cao năng lực tài chính và khả năng chống đỡ trước ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh; khuyến khích trích lập tối đa số tiền dự phòng cụ thể đối với dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, miễn, giảm lãi, phí theo quy định tại Thông tư 01/2020/TT-NHNN...
Trong quá trình triển khai cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu, các TCTD đã tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu, đặc biệt là nỗ lực tự xử lý nợ xấu bằng các biện pháp đôn đốc thu hồi nợ, sử dụng dự phòng rủi ro. Từ năm 2021 đến nay, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 216,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu. Trong 4 tháng đầu 2022, tổng số dư nợ xấu được xử lý đạt 54,8 nghìn tỷ đồng, phần lớn là khách hàng trả nợ (23,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,0% tổng nợ xấu được xử lý); sử dụng dự phòng rủi ro (14,2 nghìn tỷ đồng, 25,9%) và bán nợ cho VAMC (11,4 nghìn tỷ đồng, 20,9%).
Liên quan đến công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42, lũy kế từ 15/8/2017 đến 31/12/2021, toàn hệ thống TCTD đã xử lý được 380,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42, đạt trung bình khoảng 5,67 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn nhiều so với kết quả xử lý nợ xấu tại thời điểm trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (trung bình từ năm 2012-2017, hệ thống các TCTD xử lý được khoảng 3,25 nghìn tỷ đồng/tháng). Xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết số 42 chủ yếu thông qua hình thức khách hàng trả nợ là 148 nghìn tỷ đồng, chiếm 38,9% tổng nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đã xử lý (trung bình từ 2012-2017 chỉ khoảng 22,8%). Trong đó, riêng năm 2021, đã xử lý được 48,3 nghìn tỷ đồng.
Cũng theo NHNN, nguy cơ nợ xấu tăng cao do ảnh hưởng của dịch bệnh; doanh nghiệp bị sụt giảm doanh thu, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí và giữ nguyên nhóm nợ trước mắt là hết sức cần thiết nhằm giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp và người dân nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro nợ xấu gia tăng và rủi ro thanh khoản trong trung hạn. Việc cung ứng vốn cho nền kinh tế, đặc biệt vốn trung, dài hạn vẫn chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng trong khi nguồn vốn ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, làm gia tăng rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản cho hệ thống TCTD.
Việc bán, phát mại tài sản để xử lý nợ xấu của các TCTD gặp nhiều khó khăn do thị trường thanh lý tài sản đảm bảo bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế chưa phục hồi sau đại dịch. Bên cạnh đó, có những khách hàng lợi dụng bối cảnh dịch bệnh để trì hoãn trả nợ, giao tài sản đảm bảo cho các TCTD khiến tiến trình xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm càng gặp nhiều khó khăn.
Định hướng trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo các TCTD đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu, thực hiện quyết liệt các biện pháp để thu hồi nợ, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro; nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh. Phối hợp với các bộ, ngành liên quan để tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu, tạo cơ sở để đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu hiệu quả.
“NHNN cũng sẽ phối hợp với các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện quy định tại Nghị quyết 42 trên thực tế sau khi được Quốc hội thông qua gia hạn thời gian áp dụng Nghị quyết” – NHNN cho biết thêm.
Kiểm soát chặt tín dụng các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, trong đó có bất động sản
Bên cạnh các nội dung trên, báo cáo của NHNN cũng giải trình, làm rõ thêm một số nội dung liên quan đến việc quản lý, kiểm soát tín dụng trong lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, nhất là đối với bất động sản. Theo đó, hiện khoảng 94% dư nợ tín dụng bất động sản là cho vay trung, dài hạn (10-25 năm), trong khi nguồn huy động của ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn.
"Chênh lệch kỳ hạn và lãi suất giữa vốn, cho vay lĩnh vực này rủi ro rất lớn với các ngân hàng" – NHNN cho biết.
Cụ thể, tổng dư nợ bất động sản của các tổ chức tín dụng đến cuối tháng 4 là hơn 2,28 triệu tỷ đồng, tăng 10,19% so với cuối năm 2021. Mức này chiếm khoảng 20,44% tổng dư nợ với nền kinh tế, và tỉ lệ nợ xấu của lĩnh vực này khoảng 1,62%.
NHNN đánh giá lĩnh vực đầu tư kinh doanh bất động sản là một trong các lĩnh vực rủi ro với hoạt động ngân hàng, cần có các giải pháp kiểm soát.
Chưa kể, thị trường bất động sản biến động mạnh, tình trạng thổi giá gây sốt ảo bất động sản, đấu giá đất với giá cao bất thường… ảnh hưởng đến cấp tín dụng, định giá tài sản đảm bảo của các tổ chức tín dụng.
Thống đốc cũng đánh giá, năm 2022, sức ép tăng trưởng tín dụng lớn do cộng hưởng nhiều yếu tố, như đầu tư công giải ngân vẫn còn chậm khiến nguồn vốn phục hồi kinh tế phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng.
Ngoài ra, triển khai gói hỗ trợ lãi suất 40.000 tỷ đồng năm 2022 - 2023 trong bối cảnh áp lực lạm phát ngày càng tăng, tỉ lệ tín dụng trên GDP đã ở mức cao, khiến điều hành tín dụng gặp nhiều thách thức.
Mặc dù đánh giá tình hình cấp tín dụng, chất lượng tín dụng với lĩnh vực bất động sản vẫn đang được NHNN kiểm soát ổn định, nhưng để hạn chế tác động của thị trường này với kinh tế vĩ mô, tiền tệ, cần có giải pháp toàn diện, đồng bộ để lành mạnh hóa, xây dựng thị trường bất động sản an toàn, bền vững.
NHNN cho biết, trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo các TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả; kiểm soát đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, trong đó có đầu tư, kinh doanh bất động sản. Đồng thời, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tiếp cận nguồn vốn tín dụng để mua, đầu tư nhà ở tự sử dụng, tiêu dùng, đặc biệt là nhà ở xã hội, nhà cho công nhân, nhà thương mại giá rẻ.
Cùng với đó, tiếp tục rà soát và phối hợp với các bộ, ngành liên quan để hoàn thiện các quy định pháp lý nhằm hỗ trợ thị trường bất động sản phát triển bền vững; kiểm soát rủi ro, đảm bảo an toàn hệ thống TCTD.
Đặc biệt, tăng cường thanh tra, giám sát chặt chẽ việc cấp tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản để kịp thời đưa ra giải pháp nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD, có biện pháp ngăn ngừa, phát hiện kịp thời rủi ro, vi phạm phát sinh.