Khái niệm rủi ro đạo đức và kinh nghiệm quốc tế về giảm thiểu rủi ro đạo đức
Theo Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI), khái niệm rủi ro đạo đức đề cập đến xu hướng chấp nhận rủi ro của một tổ chức với niềm tin họ sẽ không phải chịu hậu quả từ các hành động đã gây ra. Trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi (BHTG), rủi ro đạo đức là việc người gửi tiền hoặc các chủ nợ chấp nhận quá nhiều rủi ro khi tin rằng họ luôn được bảo vệ trước thiệt hại, hoặc các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi sẽ không bao giờ đổ vỡ, từ đó dẫn đến tình trạng chủ quan không giám sát tình hình hoạt động của các tổ chức trên.
Khủng hoảng tài chính giai đoạn 2008- 2009 là bài học nhãn tiền về nhu cầu của việc giảm thiểu rủi ro đạo đức. Thực tế cuộc khủng hoảng cho thấy hầu hết người gửi tiền đều thiếu thông tin và kỹ năng đối phó hiệu quả đối với các tổ chức tham gia BHTG. Khi nền kinh tế bất ổn, họ có xu hướng không phân biệt được các ngân hàng an toàn và không an toàn để gửi tiền, dẫn đến tình trạng mất tiền và suy giảm niềm tin công chúng vào hệ thống ngân hàng. Do đó, để thiết lập trật tự thị trường và hạn chế tối đa những tác động tiêu cực mà rủi ro đạo đức có thể đem lại, giới hoạch định chính sách cần quan tâm đến vấn đề xây dựng một mô hình tổ chức BHTG hiệu quả với nền tảng chính sách phù hợp nhằm giảm thiểu rủi ro đạo đức.
Theo Hội đồng Bình ổn Tài chính (FSB), một trong những nhân tố quan trọng góp phần giảm thiểu rủi ro đạo đức là lựa chọn thiết kế mô hình tổ chức BHTG, cụ thể: kỷ luật người gửi tiền, giới hạn về hạn mức trả BHTG (trong đó loại trừ một số diện tiền gửi và người gửi tiền ra khỏi đối tượng được bảo hiểm), hệ thống tính phí trên cơ sở rủi ro, cơ chế điều hành và giám sát cẩn trọng, quyền can thiệp sớm và xử đổ vỡ.
Để thiết lập kỷ luật người gửi tiền, quy định về hạn mức trả BHTG có tác động không nhỏ đến hành vi của họ. Theo đó, hạn mức thấp gắn liền với mục tiêu bảo vệ cho số đông với lượng tiền tiết kiệm nhỏ, ngược lại hạn mức cao và phạm vi bảo hiểm rộng sẽ hạn chế nguy cơ rút tiền hàng loạt, đồng thời khuyến khích thêm nhiều người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, khi xây dựng hạn mức trả BHTG, bên cạnh yêu cầu về một hệ thống giám sát rủi ro đạo đức hiệu quả, cần xem xét đến các yếu tố thể chế như: để duy trì ổn định hệ thống tài chính trong giai đoạn khủng hoảng, cần nâng cao hạn mức trả BHTG và ngược lại, khi nguồn lực của tổ chức BHTG hạn hẹp, hạn mức nên được xem xét giảm. Ngoài ra, các giải pháp thay thế tương đương tiền gửi cũng có vai hết sức trò quan trọng, cụ thể: quỹ thị trường tiền tệ, vốn hỗ trợ Nhà nước, vốn vay từ các tổ chức tư nhân và các tổ chức tài chính lớn…
Bên cạnh đó, hệ thống tính phí trên cơ sở rủi ro hoặc phí phân biệt được coi là công cụ hiệu quả để thiết lập kỷ luật đối với các tổ chức tham gia BHTG. Theo đó, nếu phí BHTG phản ánh mức độ rủi ro của tổ chức tham gia BHTG, việc nâng cao mức phí sẽ hạn chế hành vi chấp nhận rủi ro, từ đó góp phần giảm thiểu rủi ro đạo đức. Để triển khai hiệu quả mô hình tính phí phân biệt, tổ chức BHTG cần được tiếp cận với nguồn thông tin kịp thời, chi tiết về đặc tính rủi ro của tổ chức tham gia BHTG, đồng thời có khả năng phân tích và nguồn lực kỹ thuật để có đánh giá chuẩn xác về các tổ chức tham gia BHTG.
Yếu tố kỷ luật thị trường bên cạnh đó cũng là một tác nhân quan trọng đối với việc giảm thiểu rủi ro đạo đức. Khi các thông tin về các tổ chức tham gia BHTG được công khai trên thị trường, người gửi tiền và các chủ nợ sẽ nắm rõ tình trạng và mức độ rủi ro của các tổ chức này, qua đó có lựa chọn chính xác là sẽ gửi tiền, đầu tư hay rút lui để tránh tình trạng chấp nhận quá nhiều rủi ro và hạn chế thiệt hại. Hiệu quả của kỷ luật thị trường đối với giảm thiêu rủi ro đạo đức phụ thuộc vào các yếu tố: chi phí mua thông tin, các kỹ năng phân tích cần thiết để giám sát rủi ro ngân hàng trên cơ sở thông tin công khai và minh bạch về danh mục đầu tư của ngân hàng, các nguy cơ đe dọa ổn định tài chính khi người gửi tiền thiếu thông tin....
Giảm thiểu rủi ro đạo đức thông qua cơ chế giám sát cẩn trọng và xử lý đổ vỡ
Để giảm thiểu rủi ro đạo đức, một tổ chức BHTG với cơ chế giám sát cẩn trọng và xử lý đổ vỡ hiệu quả là điều kiện tiên quyết. Theo thời gian, tình trạng thanh khoản của các ngân hàng thường có xu hướng xấu đi, thiệt hại càng tích tụ và rủi ro ngày một gia tăng. Do đó, để giảm thiểu rủi ro, các thành viên mạng an toàn tài chính (chủ yếu là các cơ quan giám sát, tổ chức BHTG) có đủ thẩm quyền pháp lý và công cụ để can thiệp sớm, triển khai các biện pháp khắc phục và áp dụng hình phạt đối với các tổ chức tài chính có vấn đề, cụ thể: buộc phải ghi nhận lỗ và bổ sung vốn, dừng một số hoạt động, thay đổi lãnh đạo... Xử phạt các hành vi làm gia tăng rủi ro cho tổ chức, ví dụ: trục lợi, xung đột lợi ích, hành vi tắc trách và không tuân thủ các yêu cầu của tổ chức.
Để triển khai hiệu quả các yêu cầu nêu trên, cơ chế phối hợp giữa các thành viên mạng an toàn tài chính và việc nắm bắt kịp thời thông tin về tình trạng của tổ chức tham gia BHTG là hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, cần lưu tâm đến vấn đề trao quyền hạn, động cơ và nguồn lực tài chính cần thiết phục vụ việc đóng cửa các tổ chức không thể hồi phục. Bên cạnh đó, một số yếu tố có khác như: năng lực của tổ chức BHTG để thanh toán kịp thời cho người gửi tiền được bảo hiểm, đòi hỏi về nguồn nhân lực, nền tảng công nghệ tiên tiến…cũng đóng vai trò thiết yếu trong vấn đề giảm thiểu rủi ro đạo đức đối với tổ chức BHTG.
Cơ chế xử lý đổ vỡ thông qua đóng cửa tổ chức tài chính, đồng thời bắt các cổ đông và chủ nợ không bảo đảm cùng chịu lỗ để thanh toán ngay cho người gửi tiền được bảo hiểm là biện pháp thiết thực nhằm giảm thiểu rủi ro đạo đức, đồng thời tránh các tác động tiêu cực và mang tính hệ thống lên sự an toàn của mạng tài chính.
Để thực hiện tốt vấn đề này, cần có sự phối hợp giữa các thành viên mạng an toàn tài chính, trong đó tập hợp nhiều công cụ giảm thiểu rủi ro đạo đức, bao gồm cả việc cơ quan chức năng tiến hành can thiệp sớm và khắc phục kịp thời. Bên cạnh đó, cơ chế xử lý đổ vỡ cần được thực hiện thông qua khả năng đóng cửa các ngân hàng đổ vỡ nhanh chóng và có trật tự nhất theo nguyên tắc hạn chế tối đa chi phí cho tổ chức BHTG.
Rủi ro đạo đức trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam
Rủi ro đạo đức là một nguy cơ hiện trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam, thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau, trong đó có gian lận bảo hiểm, trục lợi bảo hiểm. Thực tế cho thấy mặc dù Việt Nam có nguy cơ cao chịu tác động của rủi ro đạo đức, tuy nhiên vẫn chưa có cơ chế chính sách, công cụ hoàn chỉnh nhằm giảm thiểu và hạn chế hậu quả của nguy cơ này.
Xét về hạn mức chi trả bảo hiểm, trong khi quốc tế coi đây là một công cụ nhằm điều chỉnh hành vi người gửi tiền, thì mức chi trả của BHTGVN mới chỉ có 50 triệu cho một khoản tiền gửi của cá nhân. Hạn mức này là không đủ để tác động tới thị trường cũng như khiến người gửi tiền đặt niềm tin vào hệ thống ngân hàng. Ngược lại, nó tạo nên cảm giác rằng tổ chức BHTG có nguồn lực hạn hẹp và khiến người gửi tiền không còn quan tâm tới việc khoản tiền của mình được bảo hiểm, vô hiệu hóa mục tiêu “gìn giữ niềm tin người gửi tiền” của BHTGVN. Đây lại là thái cực ngược lại với một số nước trên thế giới, với việc đặt hạn mức chi trả bảo hiểm cao, đã được coi như tác nhân khiến người gửi tiền cũng như các chủ nợ chấp nhận việc gặp rủi ro để nhận được lãi suất cao, và lãnh đạo ngân hàng đưa ra những quyết định rủi ro hơn vì đã có tổ chức BHTG đứng ra chi trả. Việc xác lập hạn mức phù hợp là nhân tố quan trọng góp phần giảm thiểu rủi ro đạo đức trong lĩnh vực BHTG.
Xét về hệ thống tính phí, nếu như thế giới coi đây là công cụ hiệu quả để thiết lập kỷ luật đối với các tổ chức tham gia BHTG, thì Việt Nam chủ trương về áp dụng mức phí trên cơ sở rủi ro của các tổ chức tín dụng đã được quy định về nguyên tắc trong Luật BHTG. Tuy nhiên, chưa có văn bản hướng dẫn nhằm cụ thể hóa điều Luật này nên chưa được triển khai trong thực tế. Hiện nay, với mức phí đồng hạng với mọi ngân hàng, bao gồm cả ngân hàng yếu kém lẫn ngân hàng lành mạnh, chưa tạo được động lực để ngăn cản những hành vi rủi ro đạo đức.
Yếu tố kỷ luật thị trường cũng không được đảm bảo khi thông tin về các tổ chức tham gia BHTG không được công bố công khai. Bên cạnh đó, thông tin dễ bị tác động nhiễu loạn, khiến cho những “tin đồn ác ý” dễ dàng gây xáo động thị trường, tạo ra những hậu quả có thật từ những thông tin ảo.
Về cơ chế điều hành, giám sát, hiện chưa có sự phân vai cụ thể bằng các văn bản pháp luật về vai trò và phương thức phối hợp của các tổ chức trong mạng lưới an toàn tài chính, trong đó có BHTGVN và cơ chế hoạt động phù hợp để các tổ chức này không chồng chéo, đảm bảo hiệu quả cao nhất trong việc giám sát, điều hành.
Cơ chế can thiệp sớm và xử lý đổ vỡ chưa thực sự hoàn thiện cũng khiến các cơ quan tham gia can thiệp sớm và xử lý đổ vỡ phải lúng túng. Nguyên nhân là bởi hiện còn thiếu các văn bản hướng dẫn, khiến ngay cả BHTGVN cũng khó xác định được thời điểm chính xác để thực hiện quá trình chi trả tiền bảo hiểm theo đúng pháp luật, cũng như lúng túng trong việc xử lý một số đối tượng “không bình thường” trong quá trình chi trả.
Bên cạnh những trường hợp rủi ro đạo đức trong ngành ngân hàng đã được công bố nhiều thông tin trên báo chí, chúng tôi xin đi sâu vào phân tích trường hợp Quỹ Tín dụng Nhân dân (QTDND) Trần Cao (Phù Cừ - Hưng Yên). Đây là một trong những trường hợp BHTGVN trực tiếp phát hiện vấn đề và đã thực hiện trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền khi Quỹ đổ vỡ.
QTDND Trần Cao được thành lập và hoạt động theo Giấy phép hoạt động số 41/NH-GP ngày 25/03/1998 của NHNN chi nhánh tỉnh Hưng Yên và đăng ký tham gia BHTG, được Tổng giám đốc BHTGVN cấp Chứng nhận BHTG số 0515/CN-BHTG ngày 01/08/2000 và cấp đổi số 0048.001.1-BHTG ngày 20/10/2006.
Trong quá trình hoạt động, Chủ tịch HĐQT, Giám đốc, kế toán trưởng, cán bộ tín dụng, cán bộ kiểm soát QTDND Trần Cao đã lợi dụng tín nhiệm, chức vụ, tham ô, gây thất thoát lớn về tài sản dẫn đến QTD này mất khả năng thanh toán và rơi vào tình trạng phá sản, đồng thời bị cơ quan cảnh sát điều tra ra quyết định khởi tố một số cá nhân. Nguyên nhân của tình trạng trên là do quản lý, điều hành hoạt động của QTD yếu kém, cán bộ lập hồ sơ khống đứng tên người khác để vay tiền, vay hộ, vay ké, trong đó riêng một cán bộ kiểm soát viên đã lập hồ sơ khống, vay ké, chiếm đoạt số tiền 16 tỷ 690 triệu đồng.
Theo yêu cầu của NHNN chi nhánh tỉnh Hưng Yên cũng như theo quy định pháp luật, BHTGVN đã thực hiện nhiệm vụ trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền. Trong quá trình rà soát và chi trả bảo hiểm, BHTGVN nhận thấy có nhiều nghi vấn về các giao dịch và hạch toán đối với tiền gửi của 69 khách hàng gửi tiền với những dấu hiệu bất thường; việc trả nợ của QTDND Trần Cao và thu nợ của 6 QTDND đã cho QTDND Trần Cao vay (bao gồm Đình Cao, Phan Sào Nam, Minh Tân, Quang Hưng, Tống Phan, Bạch Sam) cố dấu hiệu hợp thức chứng từ, ghi thu, chi để bảo đảm cân đối trong hạch toán kế toán, nhưng thực chất không có tiền gửi và cũng không có hành vi trả nợ. Các dấu hiệu cho thấy QTDND Trần Cao đã thông đồng với 6 QTDND có dư nợ cho vay trên làm các thủ tục hợp thức hóa chuyển từ nợ vay các QTDND (tiền của tổ chức) sang tiền gửi tiết kiệm mang tên cá nhân để trục lợi tiền bảo hiểm.
Như vậy, các cán bộ QTD đã lợi dụng tín nhiệm, chức vụ để trục lợi cá nhân, khiến QTD mất khả năng chi trả, sau đó tiếp tục hợp thức hóa chứng từ, thông đồng với các QTDND có dư nợ cho vay, phù phép ra những khoản tiết kiệm cá nhân “ảo” để trục lợi bảo hiểm. Tình huống này được gọi là “trục lợi cơ hội”, hay “trục lợi mềm”, thường xuất hiện trong mọi lĩnh vực bảo hiểm. Điều đáng chú ý là Luật BHTG và các văn bản hướng dẫn, văn bản dưới luật chưa đề cập đến hành vi gian lận bảo hiểm, Luật Hình sự cũng chưa có quy định cụ thể và chế tài xử lý, dẫn tới việc các cơ quan trực tiếp thực hiện như BHTGVN gặp những lúng túng nhất định. Bản thân việc xác định, điều tra, làm rõ các hành vi gian lận bảo hiểm lại vượt quá chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của BHTGVN, cần tới những nỗ lực làm việc liên ngành, trong đó có cả ngành Công an. Đây đã và đang là một trong những vấn đề nan giải trong công tác thực hiện BHTG.
Giảm thiểu rủi ro đạo đức – một số đề xuất trong bối cảnh Việt Nam
Để có thể giảm thiểu rủi ro đạo đức, cần thực hiện song song nhiều biện pháp từ bên trong và bên ngoài các tổ chức tín dụng (TCTD), tác động tổng thể tới cả các TCTD lẫn người gửi tiền và thị trường nói chung, trong đó tổ chức BHTG có vai trò đặc biệt quan trọng… Từ Hướng dẫn của Hiệp hội BHTG quốc tế về Giảm thiểu rủi ro đạo đức, chúng tôi xin đưa ra một số đề xuất cụ thể cho trường hợp Việt Nam:
Trước hết, không gì có thể giúp một tổ chức tín dụng tránh được khó khăn hoặc đổ vỡ nếu bản thân tổ chức ấy không hoạt động một cách lành mạnh và có một cơ chế phù hợp nhằm đảm bảo duy trì sự lành mạnh ấy. Hướng dẫn nâng cao của Hiệp hội BHTG Quốc tế (IADI) nhấn mạnh: “Quản trị doanh nghiệp tốt, quản trị rủi ro hợp lý có thể đảm bảo các chiến lược kinh doanh của các tổ chức tài chính được thực hiện một cách an toàn, lành mạnh, do đó có thể trở thành phòng tuyến tiên phong chống lại những hành vi rủi ro.” Do đó, cần ban hành các chính sách nhằm thúc đẩy việc quản trị tốt các TCTD, bao gồm các tiêu chuẩn nội bộ, quy trình, hệ thống đảm bảo lãnh đạo cấp cao có thể chỉ đạo và giám sát sự minh bạch và chính xác của kế toán cũng như thông tin tài chính, thực hiện kiểm soát nội bộ đầy đủ; quản lý rủi ro và đánh giá hoạt động ngân hàng; căn chỉnh phù hợp giữa thù lao và mục tiêu kinh doanh; khuyến khích trách nhiệm cá nhân đối với viên chức và các vị trí quản lý vốn, thanh khoản.
Hai là thực hiện xây dựng cơ chế hạn mức chi trả bảo hiểm phù hợp: không quá cao để tạo ra cho người gửi tiền, bộ máy lãnh đạo cấp cao các ngân hàng ỷ lại vào tiền chi trả bảo hiểm, nhưng cũng không quá thấp như hiện nay. Đồng thời, cơ chế hạn mức cũng phải đảm bảo linh hoạt để có thể thay đổi phù hợp với tình hình thị trường. Ví dụ: để duy trì ổn định hệ thống tài chính trong giai đoạn khủng hoảng, cần nâng cao hạn mức trả BHTG và ngược lại, khi nguồn lực của tổ chức BHTG hạn hẹp hoặc các cơ quan giám sát chưa có các chính sách phản ứng kịp thời, cần xem xét giảm hạn mức BHTG. Việc hạn mức chi trả 50 triệu đồng được đưa ra từ năm 2005 đến nay mới được đề xuất thay đổi rõ ràng là không đủ linh hoạt để phù hợp với tình hình thực tế.
Ba là thực hiện cơ chế tính phí BHTG dựa trên cơ sở rủi ro, nhằm tạo ra áp lực đối với các tổ chức ngân hàng, hạn chế thực hiện các quyết định có nguy cơ cao. Tất nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay, cơ chế tính phí dựa trên cơ sở rủi ro có thể đem tới những hiệu ứng phụ: với môi trường hoạt động ngân hàng còn thiếu minh bạch, cách tính phí này có thể sẽ tác động xấu tới tâm lý người gửi tiền, khiến họ hoang mang và mất niềm tin vào hệ thống ngân hàng, có thể tạo nên một vài làn sóng rút tiền ở những ngân hàng bị đánh giá là yếu kém để chuyển sang những ngân hàng lành mạnh hơn. Do đó, việc áp dụng cách tính phí dựa trên cơ sở rủi ro cần thực hiện theo tiến trình tương thích với các chính sách khác nhằm làm minh bạch hóa thị trường ngân hàng.
Bốn là cần đánh giá tăng cường hệ thống quản lý, cơ chế giám sát mạnh mẽ như một công cụ thiết yếu giảm thiểu rủi ro đạo đức, và cùng với nó là cơ chế giảm tối đa chi phí cho tổ chức BHTG thông qua cảnh báo, can thiệp sớm các TCTD có vấn đề. Để thực hiện tốt vấn đề này, nguyên tắc giám sát đòi hỏi cơ chế chia sẻ thông tin và hợp tác giữa các cơ quan thuộc mạng an toàn tài chính được quy định cụ thể, thực hiện cân bằng giữa các văn bản quy phạm pháp luật với nguồn nhân lực, nguồn lực công nghệ. Do đó, cần phải có những văn bản luật hóa cũng như văn bản hướng dẫn tương thích, tạo ra hành lang pháp lý tốt cho BHTGVN phối kết hợp với các thành viên khác của mạng lưới an toàn tài chính một cách nhuần nhuyễn.
Năm là cần hoàn thiện các văn bản pháp luật, nhất là văn bản hướng dẫn để quy định các biện pháp can thiệp sớm cũng như biện pháp xử lý đổ vỡ. Trong đó, quan trọng nhất là những văn bản quy định thời điểm BHTGVN thực hiện chi trả bảo hiểm, vai trò của BHTGVN trong việc thanh lý tài sản… Thực tế cho thấy việc BHTG vào cuộc sớm, nhanh chóng chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền là một yếu tố đảm bảo giữ vững niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng, tránh các tác động dây chuyền.
Sáu là cần quy định rõ trong Luật những điều khoản miễn trừ để BHTGVN có quyền từ chối bảo hiểm cho một số trường hợp vi phạm pháp luật như: gian lận bảo hiểm, tiền gửi có liên quan đến hành vi rửa tiền hoặc phạm pháp, các trường hợp có thể làm gia tăng rủi ro đạo đức như tiền gửi liên ngân hàng, tiền gửi của chính quyền hoặc các tổ chức công, tiền gửi ngoại tệ, tiền gửi của các đối tượng là giám đốc, trưởng phòng, các cổ đông, kiểm soát viên của tổ chức tham gia BHTG.
Như vậy, vai trò của BHTG trong việc giảm thiểu rủi ro đạo đức sẽ càng rõ ràng, phát huy mục tiêu giữ gìn sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.