Bên cạnh đó, chính sách BHTG đã bộc lộ một số bất cập như: hạn mức chi trả BHTG quá thấp, phí BHTG được áp dụng theo cơ chế đồng hạng không đảm bảo yếu tố thị trường và công bằng đố với các tổ chức tham gia BHTG; quy định liên quan đến địa vị pháp lý, mô hình của tổ chức BHTGVN chưa đầy đủ; quy định về cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan giám sát tài chính chưa rõ rang minh bạch, vai trò của tổ chức BHTGVN trong việc xử lý đổ vỡ tín dụng chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của thị trường tài chính Việt Nam.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, tôi mong muốn chính sách BHTG sẽ kế thừa những nội dung phù hợp của pháp luật BHTG hiện hành, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập, tạo môi trường thuận lợi để thực thi tốt chính sách bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo an toàn, lành mạnh hệ thống tài chính ngân hàng. Với mong muốn như vậy tôi xin có một số ý kiến như sau:
Về hạn mức chi trả BHTG:
Hạn mức chi trả BHTG tối đa là 50 triệu đồng bao gồm cả gốc và lãi như hiện nay là không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và là một trong những nguyên nhân làm giảm tính hiệu quả trong việc kích thích nguồn vốn huy động trong dân. Vì vậy, cần nâng hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm. Việc quy định hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm cần điều chỉnh theo hướng dựa trên việc bảo vệ số đông người gửi tiền. Cách giải quyết trên đảm bỏa được 3 yêu cầu là tránh được rủi ro đạo đức, khuyến khích được tiền gửi tiết kiệm và đảm bảo tính khả thi trong quá trình thực hiện. Theo tôi, hạn mức chi trả tiền gửi nên để ở mức gấp 6 đến 8 lần GDP bình quân đầu người. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính ổn định của pháp luật vì hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm là yếu tố tĩnh, trong khi sự phát triển của thị trường tài chính là yếu tố động, vì vậy cần có một đơn vị có thể là tổ chức BHTG căn cứ vào tiêu chí để quy định linh hoạt về hạn mức trả tiền bảo hiểm trong từng thời kỳ để đảm bảo tiêu chí bảo vệ được 90% số người gửi tiền.
Phí bảo hiểm tiền gửi
Theo quy định tại Điểm 2 Điều 6 Nghị định 109/CP “Tổ chức tham gia BHTG phải nộp phí BHTG theo mức 0,15%/năm trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG”. Như vậy, tất cả các tổ chức tham gia BHTG cùng đóng một tỷ lệ phí như nhau và gọi là phương pháp tính phí đồng hạng. Trong giai đoạn đầu hoạt động của tổ chức BHTG thì phương pháp tính phí đồng hạng là phù hợp vì dễ thực hiện và tạo điều kiện cho tổ chức BHTG trong triển khai hoạt động. Tuy nhiên, phí BHTG đồng hạng bộc lộ một số hạn chế cơ bản cần khắc phục. Tỷ lệ phí như nhau áp dụng chung cho tất cả các tổ chức tham gia BHTG sẽ tạo nên khả năng xẩy ra các biểu hiện ỷ lại xét về góc độ quản lý rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG; đồng thời không có tác dụng khuyến khích các ngân hàng thi đua hoạt động tốt, an toàn cao để được áp dụng tỷ lệ phí BHTG thấp. Mặt khác theo xu hướng thế giới, các nước đều đang chuyển sang áp dụng cơ chế phí theo rủi ro.
Vì vậy, ở Việt Nam cũng nên áp dụng mức phí trên cơ sở rủi ro thay thế mức phí đồng hạng như hiện nay để đảm bảo nguyên tắc thị trường trong hoạt động tài chính – ngân hàng. Phí BHTG trên cơ sở rủi ro được xây dựng dựa trên kết quả đánh giá, xếp loại rủi ro của các tổ chức tín dụng, từ đó áp dụng mức phí có phân biệt theo nguyên tắc rủi ro cao, và ngược lại. Cách tính phí mới này sẽ tạo ra động lực lớn để các tổ chức tham gia BHTG giảm thiểu rủi ro nhằm được áp phí thấp hơn. Tuy nhiên để hệ thống phí BHTG theo rủi ro thực sự đi vào cuộc sống, một thách thức đang đặt ra là làm thế nào để kiểm soát được chất lượng thông tin đầu vào phục vụ cho việc sếp hạng. Về vấn đề này tôi khuyến nghị cần có quy định đủ hiệu lực đảm bảo tính đầy đủ, chính xác, kịp thời của thông tin do các tổ chức tham gia BHTG cung cấp. Bên cạnh đó, cần quy định cụ thể về trao đổi thông tin giám sát rủi ro và phối hợp xử lý giữa BHTGVN với các cơ quan giám sát khác.
Mô hình của BHTGVN
Mô hình của BHTGVN hiện nay là mô hình “chi trả với quyền hạn mở rộng”. Mô hình này đã là một bước tiến đáng kể so với “mô hình chi trả” thông thường, nhưng “mô hình chi trả mở rộng” hiện nay còn bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể là: vai trò kiểm tra, giám sát của tổ chức bảo hiểm tiền gửi còn mờ nhạt, chưa quan tâm đúng mức tới phòng chống những rủi ro tiềm ẩn… Những nhược điểm này phần nào đã hạn chế tính ưu việt của hoạt động BHTG. Trong những năm tới đây, để BHTGVN có thể thực sự có những bước tiến đáng kể, việc quy định BHTGVN hoạt động theo “mô hình giảm thiểu rủi ro” là cần thiết.
So với mô hình trước, tổ chức BHTG hoạt động theo “mô hình giảm thiểu rủi ro”, có các thẩm quyền nhằm bảo vê tốt nhất người gửi tiền, đánh giá giám sát rủi ro, đảm bảo an toàn tài chính và tái thiết hệ thống ngân hàng khi có sự cố xảy ra. Thực hiện mô hình này, BHTGVN có thể can thiệp vào mọi thời điểm trong quá trình hoạt động của tổ chức tham gia BHTG từ lúc các tổ chức này ra đời, phát triển hay suy thoái nhằm kiểm soát, ngăn chặn rủi ro kịp thời. Ngay cả khi tổ chức tham gia BHTG suy yếu đến mức buộc phải giải thể, phá sản thì lúc này tổ chức BHTGVN không chỉ áp dụng các biện pháp xử lý khác để giải quyết đổ vỡ, tiết kiệm chi phí, tránh lây lan ảnh hưởng xấu tới sự an toàn của thị trường tài chính và cả nền kinh tế.
Với mô hình giảm thiểu rủi ro, tổ chức BHTGVN sẽ thực hiện được các mục tiêu chính sách công của một tổ chức BHTG. Đó là bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền; giám sát rủi ro, đảm bảo sự phát triển an toàn và lành mạnh của các tổ chức tín dụng; chủ động tham gia tái cấu trúc hệ thống ngân hàng – tài chính. Đặc biệt, khi Việt Nam hội nhập với thế giới, nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng như hệ thống ngân hàng nói riêng chịu ảnh hưởng bởi kinh tế thế giới; hệ thống ngân hàng có khả năng chịu rủi ro cao. Việc thực hiện mô hình giảm thiểu rủi ro sẽ là một biện pháp hữu hiệu không chỉ giúp BHTGVN sớm nhận ra được những rủi ro tiềm ẩn mà còncó biện pháp hạn chế rủi ro, chủ động hơn trong việc ngăn chặn và xử lý những đổ vỡ có thể xảy ra, thực hiện tốt hơn mục tiêu bảo vệ và duy trì niềm tin của người gửi tiền, đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc gia. Vì vậy, sớm triển khai mô hình giảm thiểu rủi ro là điều cần thiết và cấp bách.