Hoạt động giám sát từ xa được BHTGVN thực hiện trên cơ sở giám sát việc chấp hành các quy định về BHTG và an toàn trong hoạt động ngân hàng dựa trên nguồn thông tin đầu vào từ các tổ chức tham gia BHTG và các nguồn thông tin khác theo quy định. Trong thời gian qua, BHTGVN đã chủ động tập trung nghiên cứu, ứng dụng một số mô hình giám sát tài chính hiệu quả phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Hoạt động giám sát từ xa đã được thực hiện thống nhất từ trụ sở chính tới các chi nhánh BHTG khu vực, không chồng chéo và đáp ứng các yêu cầu trong quá trình quản lý, điều hành. Báo cáo giám sát từ xa của BHTGVN đã trở thành kênh thông tin giám sát có chất lượng đối với các cơ quan quản lý tài chính. Tính đến cuối năm 2013, BHTGVN đã thực hiện giám sát định kỳ đối với 100% tổ chức tham gia BHTG gồm 92 ngân hàng thương mại (NHTM), Ngân hàng Hợp tác xã và 1.145 qũy tín dụng nhân dân (QTDND) với tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm là hơn 2 triệu tỷ đồng. Kết quả giám sát từ xa đã phát hiện nhiều vi phạm về BHTG và vi phạm an toàn trong hoạt động ngân hàng, từ đó có cảnh báo rủi ro kịp thời tới các tổ chức tham gia BHTG. Đặc biệt là các tổ chức tín dụng (TCTD) quy mô nhỏ, như QTDNDCS. Hoạt động giám sát từ xa của BHTGVN liên tục được đổi mới, tiến dần tới chuẩn mực quốc tế. Giám sát từ xa đối với các tổ chức tham gia BHTG là cơ sở cho các hoạt động nghiệp vụ khác tại BHTGVN.
Quá trình hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho hệ thống tài chính – ngân hàng phát triển một cách mạnh mẽ. Các tổ chức tài chính – ngân hàng tham gia BHTG ngày càng lớn mạnh về quy mô, hoạt động ngày càng đa dạng, phức tạp và rủi ro ngày càng lớn, từ đó đòi hỏi hoạt động BHTG nói chung, giám sát từ xa cần phải có những thay đổi phù hợp để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Luật BHTG đã được ban hành, tạo hành lang pháp lý đầy đủ, thống nhất nâng cao hiệu quả hoạt động BHTG. Theo đó, hoạt động giám sát của BHTGVN cũng đảm bảo được thực hiện một cách kịp thời, hiệu quả và chất lượng.
Theo quy định của Luật BHTG, về cơ bản mục tiêu và phương pháp giám sát vẫn trên cơ sở giám sát các tổ chức tham gia BHTG theo quy định pháp luật về BHTG và an toàn trong hoạt động ngân hàng nhằm phát hiện và kiến nghị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, theo Luật BHTG có những điểm mới so với các văn bản pháp luật trước đây trong hoạt động giám sát từ xa, cụ thể như:
(i) Đối tượng giám sát: tổ chức tham gia BHTG là các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân bằng đồng Việt Nam, không bảo hiểm đối với tiền gửi của tổ chức. Theo đó, chủ thể được hưởng quyền lợi bảo hiểm đã thu hẹp, chỉ tập trung bảo hiểm đối với người gửi tiền nhỏ lẻ là cá nhân, ít có khả năng tiếp cận và phân tích thông tin về thị trường. Bên cạnh đó, qua các đợt khảo sát về số liệu tiền gửi tại các tổ chức tham gia BHTG của BHTGVN thấy rằng, số lượng khách hàng là cá nhân được bảo hiểm chiếm trên 90% tổng số lượng khách hàng tham gia BHTG. Điều này cũng phù hợp với xu hướng nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, việc thu hẹp chủ thể được hưởng quyền lợi bảo hiểm cũng làm thu hẹp đối tượng giám sát của BHTGVN. Ngoài ra, theo quy định của Luật các TCTD năm 2010, đối với các TCTD phi ngân hàng (Công ty tài chính và Công ty cho thuê tài chính) không được nhận tiền gửi của khách hàng là cá nhân. Do vậy, TCTD phi ngân hàng không thuộc đối tượng tham gia BHTG, không là đối tượng giám sát của BHTGVN. Thay vào đó, tổ chức tài chính vi mô là đối tượng giám sát mới của BHTGVN theo Nghị định 68 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật BHTG.
(ii) Hoạt động thông tin, báo cáo: Theo các văn bản pháp luật trước đây, nguồn thông tin đầu vào cho hoạt động giám sát của BHTGVN từ hai nguồn chủ yếu là nguồn thông tin trực tiếp từ các tổ chức tham gia BHTG bao gồm các loại báo cáo tài chính, báo cáo thống kê, báo cáo theo yêu cầu của BHTGVN và các loại báo cáo khác. Nguồn thông tin thứ hai từ sự chia sẻ, trao đổi với NHNN. Tuy nhiên, thời gian qua BHTGVN chủ yếu chỉ nhận được nguồn thông tin trực tiếp từ tổ chức tham gia BHTG, song nguồn thông tin này rất hạn chế, đặc biệt đối với hệ thống QTDND, thông tin chủ yếu chỉ là Bảng cân đối tài khoản (Báo cáo tài chính), chất lượng thông tin thấp, phải chỉnh sửa nhiều. Để khắc phục hạn chế này, Luật BHTG đã quy định, BHTGVN được phép nhận thông tin về số dư tiền gửi được bảo hiểm trực tiếp từ tổ chức tham gia BHTG. Các thông tin khác BHTGVN sẽ nhận qua chia sẻ thông tin từ NHNN. Việc chia sẻ thông tin này đã tạo điều kiện giúp các tổ chức tham gia BHTG tập trung vào một đầu mối, tránh chồng chéo. Đồng thời, giúp cho BHTGVN tiếp cận được nguồn thông tin một cách có hệ thống, kịp thời và đầy đủ hơn trước. Tuy nhiên, cơ chế chia sẻ thông tin giữa NHNN và BHTGVN chưa được hướng dẫn một cách cụ thể trong năm 2013.
(iii) Công tác cảnh báo sau giám sát: Theo quy chế giám sát hiện hành, BHTGVN được thực hiện chức năng cảnh báo trực tiếp tới tổ chức tham gia BHTG có vi phạm pháp luật về BHTG và vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tuy nhiên, theo Luật BHTG, BHTGVN không được trực tiếp cảnh báo tổ chức tham gia BHTG vi phạm pháp luật về an toàn trong hoạt động ngân hàng mà chỉ có chức năng kiến nghị NHNN để thực hiện cảnh báo. Quy định này đảm bảo sự đồng bộ về vai trò quản lý của NHNN, tuy nhiên phần nào còn hạn chế vai trò cảnh báo sau giám sát của BHTGVN.
(iv) Vai trò định hướng cho hoạt động kiểm tra: Kiểm tra tại chỗ là hoạt động hỗ trợ và bổ sung cho hoạt động giám sát từ xa trong việc theo dõi và giám sát các tổ chức vi phạm an toàn trong hoạt động và vi phạm pháp luật về BHTG. Hoạt động kiểm tra được thực hiện theo định hướng giám sát. Tuy nhiên, với quy định như hiện nay thì kết quả giám sát từ xa không còn là nguồn thông tin đầu vào cho hoạt động kiểm tra tại chỗ. Theo Luật BHTG, BHTGVN chỉ được theo dõi và kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về BHTG, không được thực hiện kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về an toàn trong hoạt động, trong khi hoạt động giám sát từ xa được thực hiện giám sát hai nội dung này. Đây là sự không đồng nhất giữa hai hoạt động cấu thành nên hoạt động giám sát rủi ro của BHTGVN.
Luật BHTG tạo hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động BHTG trong hệ thống tài chính quốc gia. Để phát huy hiệu quả của hoạt động giám sát từ xa khi Luật BHTG có hiệu lực, cần chú ý một số vấn đề sau:
(i) NHNN cần sớm xây dựng văn bản dưới Luật quy định cụ thể, trách nhiệm rõ ràng trong việc cung cấp trao đổi thông tin giữa NHNN và BHTGVN, làm cơ sở khai thác thông tin đầu vào cho hoạt động giám sát từ xa của BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG.
(ii) BHTGVN cần chủ động xây dựng lại bộ chỉ tiêu giám sát phù hợp với nguồn thông tin đầu vào từ NHNN và tổ chức tham gia BHTG giúp nâng cao chất lượng hoạt động giám sát; phối kết hợp với hoạt động kiểm tra tại chỗ để xây dựng bộ chỉ tiêu và mẫu biểu liên quan đến vấn đề giám sát tiền gửi tại tổ chức tham gia BHTG.
(iii) Chủ động phối hợp với NHNN trong việc xử lý, cảnh báo các tổ chức tham gia BHTG có vấn đề trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và hoạt động BHTG.
(iv) Xây dựng mô hình giám sát mới phù hợp với cơ chế cung cấp thông tin đầu vào và cảnh báo sau giám sát theo quy định của Luật BHTG.