Mới đây, nhiều ngân hàng được cấp thêm chỉ tiêu tín dụng trong quý IV/2021. Điều này giúp các nhà băng có thêm dư địa tăng trưởng trong thời gian tới.
Theo nhận định của giới phân tích, những tháng cuối năm, nhu cầu vốn trong nền kinh tế được kỳ vọng sẽ sớm hồi phục tương ứng với sự phục hồi ở lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng, cùng với tính chất mùa vụ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các ngân hàng cần được cấp thêm “room” tín dụng khi chỉ trong 9 tháng đầu năm, nhiều nhà băng đã tiệm cận với hạn mức tín dụng được cấp mới trong quý III. Dư địa hạn mức được nới thêm cũng sẽ ảnh hưởng nhiều tới kế hoạch lợi nhuận chung trong cả năm, đặc biệt trong bối cảnh các ngân hàng đã phải giảm lãi để hỗ trợ nền kinh tế. Do đó, kỳ vọng của các ngân hàng vào đợt nới room này cũng không nhỏ.
Giống như các đợt trước đó, hai tiêu chí chính để các ngân hàng được nới room tín dụng đó là chất lượng tài sản và chỉ số an toàn tốt. Bên cạnh đó, ngân hàng có năng lực quản trị rủi ro vững chắc và tuân thủ đúng theo chính sách của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) (như tái cơ cấu dư nợ cho vay, hay giảm lãi suất để hỗ trợ cho khách hàng) có thể sẽ nhận được hạn mức tín dụng cao hơn.
Trần hạn mức tín dụng đang là công cụ quản lý hữu hiệu
Theo NHNN, trần hạn mức tín dụng là công cụ điều hành quan trọng, góp phần quản lý chất lượng tín dụng. NHNN sẽ căn cứ vào quy mô, chất lượng tài sản của từng ngân hàng để giao hạn mức tăng trưởng tín dụng phù hợp.
Trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát của Quốc hội và Chính phủ, hàng năm NHNN xây dựng chỉ tiêu định hướng tăng trưởng tín dụng cho cả năm của toàn hệ thống để đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Việc NHNN kiểm soát mức tăng trưởng tín dụng hàng năm của cả hệ thống là cần thiết.
Mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của NHNN là có những giải pháp phù hợp ổn định nền kinh tế, ổn định vĩ mô là tối quan trọng. Với quy mô tín dụng đang chiếm trên 140% GDP hiện nay, tức là nền kinh tế vẫn đang phụ thuộc lớn vào vốn vay ngân hàng, nên nếu bỏ trần hạn mức sẽ gây ra nhiều bất ổn.
Hạn mức tăng trưởng tín dụng vừa đảm bảo tăng trưởng vừa đảm bảo kiểm soát chất lượng, trước mắt là công cụ hiệu quả hữu hiệu. Tại Việt Nam, vốn tín dụng ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế là chủ yếu, trong khi thị trường cung ứng vốn ở các nước khác từ nhiều thị trường như chứng khoán và trái phiếu. Nếu như không quản lý tốt, hài hoà, sẽ khiến các ngân hàng tăng trưởng tín dụng ồ ạt, không kiểm soát được thì nợ xấu nguy cơ tăng lên.
Theo các chuyên gia, việc duy trì hạn mức tín dụng còn nhằm ổn định thanh khoản và mặt bằng lãi suất (giai đoạn 2016-2020 lãi suất cho vay bình quân giảm khoảng 3,6%/năm so với giai đoạn 2011-2015), đồng thời, thúc đẩy TCTD nâng cao năng lực tài chính, củng cố vốn điều lệ và chất lượng quản trị, điều hành tiệm cận với thông lệ quốc tế. Thông thường, khi giao chỉ tiêu tín dụng cho các TCTD, NHNN sẽ chú ý những chỉ tiêu này. Bên cạnh đó, thúc đẩy TCTD khẩn trương thực hiện Đề án tái cơ cấu, tập trung xử lý nợ xấu, nâng cao năng lực cạnh tranh; góp phần lành mạnh hóa hệ thống. NHNN sẽ căn cứ vào quy mô, chất lượng tài sản của từng TCTD để xếp hạng A, B, C… và giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng linh hoạt.
Hơn nữa, biện pháp điều hành thông qua hạn mức tín dụng còn góp phần kiểm soát và điều tiết lượng tiền cung ứng ra nền kinh tế, kiểm soát số nhân tiền tệ, đảm bảo mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán theo mục tiêu đề ra trong điều hành chính sách tiền tệ hàng năm, từ đó góp phần kiểm soát lạm phát theo mục tiêu được Quốc hội đề ra; khuyến khích thị trường vốn, đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển để cung ứng nguồn vốn trung dài hạn cho nền kinh tế, giảm sự lệ thuộc vào vốn ngân hàng.
Thông qua hạn mức tín dụng, cơ quan quản lý có thể định hướng cơ cấu tín dụng tập trung vào các lĩnh vực là động lực tăng trưởng, lĩnh vực ưu tiên; tín dụng tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát chặt chẽ. Thực tế, hạn mức tín dụng cao hơn cũng được xem xét cho những ngân hàng thương mại đẩy mạnh cho vay các lĩnh vực ưu tiên. Nhờ vậy, dòng vốn sẽ được điều chỉnh vào sản xuất, kiểm soát chặt cho vay với lĩnh vực rủi ro như chứng khoán, bất động sản
Theo số liệu của NHNN, tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên ước luôn chiếm tỷ trọng lớn. Đến cuối tháng 9/2021, tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn tăng 9,2% so với 2020, chiếm 25,09% dư nợ chung toàn nền kinh tế (cùng kỳ năm 2020 tăng 5,96%; cuối năm 2020 tăng 11,52%). Tín dụng đối với lĩnh vực doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 7,19% so với cuối năm 2020, chiếm 19,66% tổng dư nợ toàn nền kinh tế...
Chú trọng chất lượng tín dụng, đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi Covid-19
Trong hoàn cảnh hiện nay, phục hồi kinh tế toàn cầu có nhiều tín hiệu tích cực, nhưng quá trình phục hồi còn nhiều bất trắc phụ thuộc vào làn sóng Covid-19 mới phát sinh, biến động giá hàng hóa cơ bản và xu hướng lạm phát toàn cầu gia tăng. Một số nước mới nổi và đang phát triển đã tăng lãi suất để đối phó với rủi ro lạm phát.
Trong nước, tổng cầu của nền kinh tế đang phục hồi nhưng chưa về mức trước dịch. Mặc dù lạm phát được kiểm soát, tuy nhiên, không thể chủ quan với rủi ro lạm phát và rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô với bối cảnh toàn cầu như đề cập ở trên.
Vì vậy, trong điều hành tín dụng, ngân hàng phải đảm bảo nguyên tắc tăng trưởng tín dụng phải đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo bám sát chủ trương, định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng của Đảng và Chính phủ; chú trọng tăng về chất, không đặt nặng tăng quy mô, phải thận trọng với rủi ro lạm phát.
Trong thời gian tới, NHNN cho biết sẽ tiếp tục điều hành tín dụng theo chỉ tiêu định hướng, gắn với nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với TCTD trên cơ sở tình hình hoạt động, năng lực quản trị và khả năng tăng trưởng tín dụng lành mạnh; trong đó ưu tiên TCTD giảm mặt bằng lãi suất cho vay.
Đối với các giải pháp hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, NHNN tiếp tục theo dõi, đôn đốc các TCTD triển khai hỗ trợ khách hàng theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN và Thông tư 03/2021/TT-NHNN, Thông tư 14/2021/TT-NHNN về các giải pháp hỗ trợ của ngành ngân hàng hỗ trợ khách hàng khắc phục khó khăn do dịch Covid-19 và việc thực hiện cam kết giảm lãi suất của 16 ngân hàng thương mại. Cơ quan quản lý tiếp tục theo dõi, đôn đốc các TCTD báo cáo kết quả hỗ trợ tháo gỡ khó khăn đối với việc sản xuất, thu mua, tiêu thụ, tạm trữ thóc gạo khu vực Đồng bằng song Cửu Long; chỉ đạo TCTD tiếp tục hỗ trợ tháo gỡ khó khăn về vốn vay đối với khách hàng thực hiện sản xuất, lưu thông hàng hóa, đặc biệt là hàng nông sản, lương thực, thực phẩm thiết yếu.
Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục thực hiện tái cấp vốn theo quy định đối với Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) để cho vay hỗ trợ trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất kinh doanh theo Nghị quyết 68/NQ-CP, Nghị quyết 126/NQ-CP, Quyết định 23/2021/QĐ-TTg; phối hợp với Bộ LĐTBXH theo dõi, chỉ đạo NHCSXH tích cực triển khai cho vay; phối hợp Bộ LĐTB&XH hoàn thiện Quyết định sửa đổi, bổ sung Quyết định 23/2021/QĐ-TTg.
Đồng thời, phối hợp các Bộ ngành, Ngân hàng NHCSXH xây dựng Chương trình cho vay hỗ trợ học sinh, sinh viên có hoàn cảnh gia đình khó khăn để mua máy tính, thiết bị học tập phục vụ học trực tuyến theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Bên cạnh đó, tiếp tục triển khai nhiệm vụ được giao của NHNN tại Nghị quyết 105/NQ-CP ngày 09/09/2021 về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch Covid-19. Triển khai nhiệm vụ liên quan đến ngành ngân hàng tại Chương trình phục hồi kinh tế, Nghị quyết về phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025 sau khi các Chương trình, Nghị quyết này được cấp có thẩm quyền ban hành.
Tiếp tục kiểm soát chặt tín dụng trong lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, các dự án BOT, BT giao thông, chứng khoán; phối hợp các Bộ, ngành liên quan tháo gỡ khó khăn về tín dụng đối với BOT, BT giao thông; tăng cường quản lý rủi ro đối với cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, tín dụng tiêu dùng để kịp thời chỉ đạo các TCTD, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng.
Các giải pháp tín dụng hướng đến tạo điều kiện để mở rộng tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh; chỉ đạo các TCTD tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong việc tiếp cận tín dụng, đáp ứng nhu cầu hợp pháp của người dân, góp phần hạn chế “tín dụng đen”; tăng cường phối hợp với các địa phương đẩy mạnh chương trình kết nối ngân hàng- doanh nghiệp.
Đẩy mạnh triển khai nhiệm vụ của ngành ngân hàng trong các Chương trình mục tiêu quốc gia (xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số) theo Quyết định phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền.