1. Về cơ chế, chính sách bảo hiểm tiền gửi.
a) Về tiền gửi của các chủ thể được bảo hiểm: Nhiều ý kiến cho rằng, nên giữ nguyên quy định hiện hành, chỉ bảo hiểm tiền gửi của cá nhân, hộ gia đình và một số tổ chức có tính chất tư nhân như tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp doanh. Cũng có ý kiến đặt vấn đề nên mở rộng đối tượng là các tổ chức khác. Tuy nhiên, NHNN thì ra đưa ra dự kiến bỏ đối tượng là hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp doanh, chỉ BHTG cho đối tượng là cá nhân.
b) Về loại tiền gửi được bảo hiểm. Quy định hiện hành cũng như dự kiến của NHNN là chỉ bảo hiểm cho tiền gửi là Đồng Việt Nam. Tuy nhiên, đây là vấn đề được thảo luận khá sôi nổi. Nhiều ý kiến cho rằng, nếu Nhà nước còn nhận tiền gửi bằng ngoại tệ của người dân thì Nhà nước nên và cần bảo hiểm cho loại tiền gửi này; hoặc quan niệm ngoại tệ như là một loại tài sản thì có thể bảo hiểm theo các nguyên tắc của bảo hiểm tài sản , được bảo hiểm bởi các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, không thuộc phạm vi của bảo hiểm tiền gửi. Cũng có ý kiến đề nghị về BHTG là ngoại tệ cân nhắc với chính sách chống đô la hóa của Nhà nước ta hiện nay cũng như những năm tới.
c) Về mức phí bảo hiểm: Hầu hết các ý kiến đều cho rằng, mức phí và cơ chế xác định phí bảo hiểm quy định này là không hợp lý, không khuyến khích các tổ chức tín dụng (TCTD) phấn đấu giảm thiểu rủi ro. Hầu hết các ý kiến đề nghị áp dụng phương pháp tính phí theo mô hình giảm thiểu rủi ro, trên cơ sở uy tín của các TCTD. TCTD nào có uy tín cao, rủi ro thấp thì trả phí thấp và ngược lại. NHNN đưa ra quan điểm về một khung mức phí, bảo đảm tính linh hoạt.
d) Về mức chi trả bảo hiểm. Mức chi trả tối đa là 50 triệu đồng đối với tất cả các khoản tiền gửi của một người gửi tiền ở một TCTD. Hầu hết các ý kiến đều đề nghị hoặc tán thành với việc nâng mức chi trả tuyệt đối với mức tỷ lệ phần trăm.
e) Về trường hợp chi trả bảo hiểm. Các ý kiến cần làm rõ việc chi trả bảo hiểm thực hiện trong trường hợp TCTD mất khả năng thanh toán và bị tòa án tuyên bố phá sản hay cả trong trường hợp TCTD bị chấm dứt hoạt động bằng một quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Ngân hàng Nhà nước dự kiến thời điểm chi trả BHTG là khi TCTD chấm dứt hoạt động và bị tòa án tuyên bố phá sản.
2. Về vị trí, vai trò, mô hình tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
a) Các ý kiến đều cho rằng, việc thành lập BHTGVN là chủ trương đúng đắn của Chính phủ trong việc chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường, giảm việc sử dụng ngân sách Nhà nước tài trợ cho các tổ chức tài chính yếu kém. Việc hình thành chính sách BHTG và thành lập BHTGVN là sự tuyên bố của Chính phủ về một cơ chế BHTG công khai, tạo niềm tin cho công chúng, góp phần tăng trưởng huy động tiền gửi phục vụ phát triển kinh tế và sự ổn định, an toàn của hệ thống tài chính – tín dụng.
b) Cơ sở pháp lý hiện tại (ở mức Nghị định) đã tạo cho BHTGVN một vị thế tương đối độc lập về mặt tổ chức cũng như được trao thực hiện các chức năng tiên tiến như chức năng giám sát từ xa, kiểm tra tại chỗ, hỗ trợ tài chính, ngoài chức năng trung tâm là chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền khi có TCTD chấm dứt hoạt động. Sau gần 12 năm hoạt động, BHTGVN đã thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và góp phần vào duy trì ổn định hệ thống tài chính tín dụng.
c) Theo thông lệ quốc tế, BHTG có vai trò trong Mạng an toàn tài chính tiền tệ quốc gia. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý hiện tại của Việt Nam chưa xác định rõ khái niệm này, đồng thời cũng chưa có cơ chế hoạt động, chia sẻ thông tin và phối hợp xử lý chính sách chính thức giữa các thành viên của Mạng an toàn tài chính. Xét về cấu trúc hệ thống giám sát tài chính hiện tại, BHTGVN cũng có nhiệm vụ giám sát các ngân hàng, tổ chức tín dụng tham gia BHTG, và vì vậy, BHTGVN trở thành bộ phận cấu thành của Hệ thống giám sát tài chính quốc gia (Hệ thống này gồm các cơ quan: Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia và BHTGVN). Nhiều đại biểu tán thành với quan điểm này. Tuy nhiên, các ý kiến cũng cho rằng, cần làm rõ sự khác biệt giữa hoạt động giám sát của BHTGVN và hoạt động giám sát của các cơ quan khác (về mục tiêu, phạm vi, phương thức và công cụ giám sát) nhằm tránh trùng lặp hoặc bỏ trống.
d) Về vị trí, vai trò của BHTGVN: Đa số các ý kiến cho rằng, địa vị pháp lý, vị trí, vai trò của BHTGVN như hiện hành là tương đối phù hợp. Cần tiếp tục củng cố vai trò của BHTGVN để BHTGVN thực sự trở thành một công cụ tài chính của Chính phủ, một định chế tài chính trong nền kinh tế thị trường, thực hiện mục tiêu của chính sách công là: bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và góp phần bảo đảm an toàn, lành mạnh của hệ thống tài chính – tín dụng.
Đa số ý kiến cho rằng:
- Luật cần xác định rõ vai trò, vị trí của BHTGVN trong hệ thống các cơ quan giám sát và bảo đảm an toàn nền tài chính quốc gia; xác định rõ mối quan hệ phối hợp giữa BHTGVN với các cơ quan có trách nhiệm duy trì ổn định hệ thống tài chính, đồng thời xác định tính độc lập tương đối của BHTGVN trong việc thực thi nhiệm vụ được giao.
- Nghiên cứu mô hình hướng tới của BHTGVN trên cơ sở mô hình tiên tiến hiện đại này là mô hình tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro, theo khuyến nghị của Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (BCBS) và hiệp hội BHTG quốc tế (IADA). Trên cơ sở đó, trao cho BHTGVN những chức năng, nhiệm vụ, nghiệp vụ tương ứng.
- Nên nghiên cứu xây dựng tổ chức BHTGVN là một tổ chức có vị trí tương đối độc lập, có thể như mô hình của một Tổng công ty nhà nước. BHTGVN không phải là một tổ chức trực thuộc Thủ tướng Chính phủ mà là một tổ chức, một định chế tài chính củu Chính phủ, hoạt động theo Luật. Thủ tướng là người đại diện thực hiện một số quyền của chủ sở hữu Nhà nước như: (i) quyết định thành lập và bổ nhiệm một số chức danh chủ chốt của BHTGVN; (ii) phê duyệt Điều lệ và (iii) phê duyệt Chiến lược phát tri của BHTGVN. Mức độ độc lập tương đối thể hiện trên một số nội dung chính như: (i) độc lập về tổ chức (do Thủ tướng thành lập và bổ nhiệm các chức danh HĐQT, Tổng giám đốc); ii) độc lập về tài chính (được cấp vốn điều lệ, hạch toán, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí); iii) độc lập về triển khai các nhiệm vụ, nghiệp vụ; iv) chủ động trong xử lý những trường hợp chi trả bảo hiểm đơn lẻ; v) phân định rạch ròi mối quan hệ cũng như trách nhiệm giữa BHTGVN với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan có trách nhiệm khác trong việc duy trì ổn định nền tài chính quốc gia, nhưng BHTGVN phải chịu sự quản lý của các cơ quan Nhà nước có liên quan và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tuớng Chính phủ. Cũng có ý kiến đề cập mô hình BHTGVN là một đơn vị (thậm chí chỉ như một Quỹ chi trả bảo hiểm đơn thuần) nằm trong cơ cấu tổ chức của NHNN. Ý kiến phản biện lại quan điểm này cho rằng như vậy là một bước lùi, BHTGVN sẽ không còn có được một vị thế tương đối độc lập về tổ chức và nhiệm vụ như hiện nay và không phù hợp với thông lệ quốc tế. Quan điểm chung của Ngân hàng Nhà nước là: Tổ chức BHTG do Thủ tướng Chính phủ thành lập; cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ cụ thể của BHTGVN do Thủ tướng Chính phủ quy định.
- Về quản lý Nhà nước đối với BHTGVN, các ý kiến đề nghị cần làm rõ các vấn đề về quản lý Nhà nước đối với hoạt động BHTG, nhưng đồng thời cũng cần xác định mức độ độc lập tương đối của BHTGVN để thực thi nghiệp vụ BHTG. Về vấn đề này, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa được ban hành năm 2010 đã xác định rõ: NHNN thực hiện quản lý Nhà nước đối với BHTG theo quy định của pháp luật về BHTG. Ngoài ra các cơ quan khác của Chính phủ như Bộ nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Lao động – Thương binh xã hội… cũng có những nhiệm vụ về quản lý Nhà nước về BHTGVN. Quan điểm của NHNN thì cho rằng, NHNN thực hiện quản lý Nhà nước về BHTG bao gồm: xây dựng chiến lược, quy hoạch, chính sách, pháp luật về BHTG; tuyên truyền, phổ biến pháp luật; quyết định nhân sự của tổ chức BHTG; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về BHTG.
3. Ngoài ra, các ý kiến cũng đề cập thêm một số vấn đề như:
- Việc xây dựng dự án Luật BHTG đã được Chính phủ, Quốc hội phê duyệt là bước đi đúng đắn và cần thiết. Hầu hết các ý kiến cho rằng, một trong những vấn đề lớn nhất hạn chế hiệu quả hoạt động BHTG là chưa có Luật điều chỉnh hoạt động này để đảm bảo đồng bộ với các đạo luật điều chỉnh hệ thống tài chính – tín dụng hiện hành. Để xây dựng Luật, cần giải trình, làm rõ đây là một trong những đạo luật quan trọng và cần sớm được ban hành. Tuy nhiên, BHTG là một vấn đề khá mới mẻ ở Việt Nam, do vậy, các ý kiến đề nghị về việc nghiên cứu, xây dựng đạo Luật này cần tham khảo thêm kinh nghiệm của các nước và phù hợp với điều kiện Việt Nam; thuyết trình rõ các cơ sở lý luận cũng như thực tiễn cho việc hình thành nhưng quan điểm, tư tưởng của việc xây dựng Luật, đặc biệt là mô hình tổ chức của tổ chức BHTGVN.
- Cần nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của các tổ chức BHTG tạo các quốc gia có trình độ phát triển tương đồng; nghiên cứu “Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống BHTG hiệu quả” được Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (BCBS) và Hiệp hội BHTG quốc tế (IADA) ban hành vào tháng 6 năm 2009 làm cơ sở xây dựng Luật BHTG.
- Luật cần kế thừa, phát triển những điểm tích cực của cơ sở pháp lý hiện tại (Nghị định 89 và Nghị định 109), điều chỉnh những mặt còn giới hạn, hạn chế nhằm thực thi tốt nhất mục tiêu chính sách công đặt ra đối với hệ thống BHTGVN đó là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, góp phần bảo đảm an toàn và lành mạnh của tài chính quốc gia.
- Luật cần khẳng định chủ trương chính sách: bảo vệ tốt hơn người gửi tiền, xây dựng được một tổ chức BHTG mạnh, phù hợp, có đủ cơ sở pháp lý và năng lực để thực hiện chính sách, nhiệm vụ đặt ra.
- Đồng thời, để thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Luật BHTG, hội thảo cũng đặt ra sự cần thiết tổ chức các cuộc hội thảo tiếp theo, nhằm tiếp tục cung cấp thêm thông tin, làm rõ các định hướng chính sách cũng như tập trung thảo luận từng nội dung cụ thể của dự thảo Luật về chính sách BHTG cũng như vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức BHTG cần được cụ thể hóa trong Luật.