Rút ngắn thời gian chi trả BHTG, kịp thời bảo vệ người gửi tiền
Thực hiện quy trình chi trả BHTG hiệu quả là điều kiện tiên quyết trong nội dung duy trì niềm tin công chúng và góp phần vào sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, đặc biệt trong tình huống có tổ chức tín dụng phải đóng cửa. Điều 23 Luật BHTG quy định, trong thời hạn 60 ngày kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, tổ chức BHTG có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi.
Kinh nghiệm quốc tế về chi trả BHTG cho thấy, các quốc gia có hệ thống BHTG phát triển có quy định pháp luật về thời gian chi trả ngắn hơn rất nhiều so với thời hạn 60 ngày. Các tổ chức BHTG thường đặt ra khoảng thời gian mục tiêu thực hiện chi trả với nỗ lực chi trả nhanh nhất có thể. Theo đó, Tổng Công ty BHTG Mỹ chi trả BHTG sau 2 ngày tính từ thời điểm đóng cửa ngân hàng, Đài Loan sau 3 ngày, Canada chi trả một phần sau 5 ngày và toàn bộ sau 14 ngày, Anh đặt mục tiêu chi trả sau 7 ngày. Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI) khuyến nghị nên quy định thời hạn mục tiêu để chi trả BHTG là sau 7 ngày tính từ khi ngân hàng nhận tiền gửi tuyên bố chấm dứt hoạt động (đóng cửa).
Với thực tiễn quốc tế và điều kiện có liên quan tới hoạt động chi trả BHTG ở Việt Nam, quy định về thời hạn chi trả 60 ngày cần được rút ngắn nhằm hạn chế ảnh hưởng bất lợi tới tâm lý của người gửi tiền, giảm hiệu ứng đám đông do đóng cửa ngân hàng có thể phát sinh.
Yếu tố để có thể rút gắn thời hạn chi trả bao gồm: khả năng tiếp cận thông tin về tiền gửi được bảo hiểm, nguồn nhân lực, phương thức chi trả, hạ tầng công nghệ thông tin. Trên thực tế, các yếu tố đó đối với BHTGVN hiện tại đã được cải thiện đáng kể. Từ tháng 6/2017 đến nay, tổ chức tham gia BHTG định kỳ cung cấp tới BHTGVN thông tin về tiền gửi được bảo hiểm. Nguồn nhân lực hiện tại của BHTGVN có thể đáp ứng nhu cầu của hoạt động chi trả. Hơn nữa, Luật BHTG của Việt Nam cho phép tổ chức BHTG trực tiếp trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền hoặc ủy quyền cho tổ chức tham gia BHTG khác thực hiện. Điều này cho phép BHTGVN có thể sử dụng phương thức ủy quyền chi trả BHTG trong tình huống cần rút ngắn thời gian chi trả. Bên cạnh đó, dự án hệ thống thông tin và hiện đại hóa ngân hàng (FSMIMS) do Ngân hàng Thế giới tài trợ Việt Nam đã đưa vào sử dụng, góp phần cải thiện điều kiện tiếp cận thông tin về tiền gửi ngân hàng và hỗ trợ xử lý chi trả ngân hàng được thuận lợi trong điều kiện cần rút ngắn thời gian.
Kiểm soát rủi ro đạo đức trong hoạt động BHTG
Bên cạnh tính ưu việt, hoạt động BHTG có thể gây phát sinh một số rủi ro. Nhận thức toàn diện, đầy đủ và có giải pháp phòng ngừa, kiểm soát chặt chẽ rủi ro sẽ nâng cao hiệu quả của hoạt động BHTG. Điều 10 Luật BHTG quy định các hành vi bị cấm trong hoạt động BHTG, nhưng chưa đề cập tới hành vi gây rủi ro đạo đức bị cấm.
Rủi ro đạo đức trong hoạt động của các TCTD có liên quan tới sự hiện diện của công cụ BHTG tương đối đa dạng, cần được xác định và có giải pháp kiểm soát. Người gửi tiền có tâm lý ít quan tâm tới hoạt động của TCTD họ gửi tiền bởi họ cho rằng, TCTD đó đã tham gia BHTG và rủi ro đối với tiền gửi đã được loại trừ. Họ có tâm lý an tâm hơn và tìm kiếm cơ hội gửi tiền tại TCTD chào lãi suất cao hơn. Ứng xử đó vô hình trung thúc đẩy hoạt động của TCTD chấp nhận rủi ro cao hơn. Hơn nữa, về phía TCTD huy động tiền gửi, trong tình huống khó khăn có thể dẫn tới đóng cửa, TCTD có thể có một số động thái trục lợi BHTG.
Thực tế trong quá trình tham gia KSĐB tại tổ chức tham gia BHTG (đặc biệt là ở một số QTDND), BHTGVN phát hiện một số hành vi nhằm trục lợi BHTG như: Khách hàng và cán bộ tổ chức tham gia BHTG câu kết thực hiện chia, tách một khoản tiền gửi trên hạn mức thành nhiều khoản tiền gửi của nhiều người để được nhận tiền bảo hiểm nhiều hơn; Huy động vốn để ngoài sổ sách sau đó hợp lý hóa; Huy động vốn sau thời điểm NHNN có văn bản chấm dứt hoặc dừng huy động vốn; Huy động vốn sau thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm...Trong khi đó, Luật BHTG chưa có quy định cụ thể các hành vi nêu trên là hành vi bị cấm. Do vậy, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, BHTGVN không có cơ sở để xử lý những hành vi nêu trên.
Theo Hướng dẫn của Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI), hành vi trục lợi BHTG là hành động gây ra hoặc có thể gây ra việc chi trả BHTG không đúng quy định cho người không được bảo hiểm hoặc vượt quá hạn mức trả tiền bảo hiểm theo quy định. Các hành vi trục lợi bảo hiểm được thể hiện dưới các hình thức sau đây: Thay thế chủ sở hữu tiền gửi (thay thế người gửi tiền không được bảo hiểm với người được bảo hiểm); Chia tách tiền gửi vượt hạn mức trả tiền bảo hiểm theo quy định và chuyển các phần tiền gửi không được bảo hiểm sang tài khoản được bảo hiểm của người khác; Ghi nhận người gửi tiền hoặc khoản tiền gửi giả vào danh sách tiền gửi được bảo hiểm hoặc không đưa khoản nợ phải trả của người gửi tiền khi thực hiện tính toán bù trừ; Ghi nhận các khoản tiền gửi giả vào sổ sách của ngân hàng nhằm mục đích chiếm dụng tiền của quỹ bảo hiểm tiền gửi. Ngoài ra, Luật BHTG của một số nước (Philippine, Đài Loan…) cũng có quy định về hành vi trục lợi và gian lận BHTG.
Để xây dựng mô hình tổ chức BHTG hiệu quả, thiết lập kỷ cương thị trường, giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực từ rủi ro đạo đức, cần xem xét bổ sung định danh về trục lợi BHTG, điều khoản miễn trừ, quyền từ chối trả tiền bảo hiểm trong trường hợp có biểu hiện trục lợi BHTG. Bổ sung hành vi cố ý chia, tách, chuyển quyền sở hữu tiền gửi được bảo hiểm nhằm mục đích được hưởng nhiều tiền bảo hiểm hơn là một trong những hành vi bị cấm.
Tiến tới áp dụng phí BHTG có phân biệt theo mức độ rủi ro
Trong hoạt động BHTG, có hai phương pháp tính phí BHTG, đó là phí đồng hạng và phí phân biệt theo mức độ rủi ro của các tổ chức tham gia BHTG. IADI khuyến nghị phí BHTG đồng hạng áp dụng trong thời gian mới triển khai hoạt động BHTG. Với tiến trình phát triển hoạt động BHTG, áp dụng phí BHTG có phân biệt rủi ro cần được áp dụng.
Luật BHTG quy định: “Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí BHTG theo đề nghị của NHNN; căn cứ vào khung phí BHTG, NHNN quy định mức phí BHTG cụ thể đối với tổ chức tham gia BHTG trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại tổ chức này”.
Từ khi BHTGVN thành lập đến nay đã gần 23 năm, phí BHTG được tính đồng hạng 0,15%/năm/trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Phương pháp tính phí này phù hợp trong giai đoạn đầu mới thành lập tổ chức BHTG và đặc thù của nền kinh tế chuyển đổi từ tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, việc áp dụng mức phí đồng hạng trong thời gian dài sẽ không tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD trong hệ thống, không khuyến khích tổ chức tham gia BHTG nâng cao hiệu quả hoạt động để được áp dụng mức phí thấp hơn, góp phần làm gia tăng nguy cơ phát sinh rủi ro đạo đức. Vì vậy, để phù hợp với tình hình thực tế và thông lệ quốc tế, hướng dẫn thu phí theo đánh giá và phân loại các tổ chức tham gia BHTG là cần thiết.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 20 Luật BHTG, mức phí BHTG khác nhau tùy thuộc vào kết quả xếp hạng TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do NHNN thực hiện việc xếp hạng. Trên thực tế, việc đánh giá xếp hạng các TCTD của NHNN chỉ nhằm mục đích phục vụ công tác quản lý và không được công bố rộng rãi trước công chúng. Do đó, cần thiết phải sửa đổi quy định về thẩm quyền đánh giá, phân loại tổ chức tham gia BHTG. Theo đó, Luật BHTG cần sửa, đổi bổ sung theo hướng Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí BHTG theo đề nghị của NHNN; căn cứ vào khung phí BHTG, NHNN quy định mức phí BHTG cụ thể đối với tổ chức tham gia BHTG trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại của BHTGVN đối với các tổ chức này. Cho phép BHTGVN được đánh giá, xếp loại tổ chức tham gia BHTG dựa trên các tiêu chí riêng và thông tin được phép tiếp cận từ NHNN để làm căn cứ trong trường hợp tính phí BHTG theo mức phí phân biệt.
Bảo vệ người gửi tiền là mục tiêu cốt lõi của chính sách BHTG. Người gửi tiền được bảo vệ trực tiếp thông qua chi trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia BHTG bị đỗ vỡ và bảo vệ gián tiếp thông qua sự phát triển an toàn lành mạnh của hệ thống tài chính ngân hàng. Thời gian qua, chính sách BHTG đã có đóng góp tích cực cho tiến trình đổi mới và phát triển hoạt động của các TCTD ở Việt Nam. Để nâng cao hiệu quả đóng góp của chính sách BHTG, cập nhật khuôn khổ pháp lý của hoạt động BHTG là cần thiết. Hơn nữa, Luật BHTG hiện hành với nhiều nội dung đang ở mức độ đề cập và gợi mở, mức độ chi tiết và cập nhật so với quốc tế còn đang có khoảng cách đáng kể, tiêu biểu là: rút ngắn thời gian chi trả BHTG, kiểm soát rủi ro đạo đức, và tiến tới áp dụng phí bảo hiểm tiền gửi có phân biệt…cần được thể hiện trong Luật BHTG sửa đổi tới đây.