Theo quy định của Luật Các Tổ chức tín dụng (TCTD) sửa đổi, bổ sung 2017 (Luật Các TCTD), các TCTD khi lâm vào một trong 4 trường hợp: Mất, có nguy cơ mất khả năng chi trả hoặc mất, có nguy cơ mất khả năng thanh toán theo quy định của NHNN; số lỗ lũy kế của TCTD lớn hơn 50% giá trị của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất; không duy trì được tỷ lệ an toàn vốn quy định trong thời gian 12 tháng liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn thấp hơn 4% trong thời gian 06 tháng liên tục; xếp hạng yếu kém trong 02 năm liên tục theo quy định của NHNN sẽ được NHNN xem xét, quyết định đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.
Bên cạnh đó, Khoản 38, Điều 4, Luật Các TCTD quy định, TCTD được kiểm soát đặc biệt có thể được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc NHNN quyết định cơ cấu lại theo một trong các phương án: Phục hồi; sáp nhập, hợp nhất; chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp; giải thể; chuyển giao bắt buộc; và phá sản. Trong đó, phương án chuyển giao bắt buộc là phương án chủ sở hữu, thành viên góp vốn, cổ đông của ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt phải chuyển giao toàn bộ cổ phần, phần vốn góp cho bên nhận chuyển giao.
Theo Khoản 39, Điều 4, Luật Các TCTD, bên nhận chuyển giao là TCTD trong nước, TCTD nước ngoài, nhà đầu tư khác có đề nghị được nhận chuyển giao bắt buộc và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định được nhận chuyển giao bắt buộc.
Theo Điều 151 Luật Các TCTD 2010 và Khoản 28 Điều 1 Luật Các TCTD sửa đổi 2017, việc chuyển giao bắt buộc ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt được quy định cụ thể như sau: NHNN trình Chính phủ quyết định chủ trương chuyển giao bắt buộc TCTD được kiểm soát đặc biệt là ngân hàng thương mại cho bên nhận chuyển giao theo quy định của pháp luật khi có đủ các điều kiện: Giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ âm; có đề nghị của bên nhận chuyển giao. Trình tự, thủ tục quyết định chủ trương chuyển giao bắt buộc ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 147a.
Theo đó, trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận được đề xuất của Ban Kiểm soát đặc biệt, NHNN xem xét, quyết định hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương cơ cấu lại TCTD được kiểm soát đặc biệt. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của NHNN, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương cơ cấu lại TCTD được kiểm soát đặc biệt.
NHNN ra quyết định chuyển giao bắt buộc sau khi phương án chuyển giao bắt buộc được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Bên nhận chuyển giao thực hiện quyền của chủ sở hữu, thành viên góp vốn, cổ đông tại ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc; thực hiện phương án chuyển giao bắt buộc đã được phê duyệt. Theo Điều 151b, Luật Các TCTD, ngân hàng thương mại được kiểm soát đặc biệt sau chuyển giao bắt buộc thực hiện thủ tục để chuyển đổi hình thức pháp lý; thủ tục thay đổi chủ sở hữu, thành viên góp vốn, cổ đông; thực hiện phương án chuyển giao bắt buộc đã được phê duyệt.
Theo quy định tại Điều 151đ Luật Các TCTD, ngân hàng nhận chuyển giao phải đáp ứng một số điều kiện. Cụ thể, bên nhận chuyển giao là TCTD hoạt động kinh doanh có lãi trong ít nhất 02 năm liền kề trước thời điểm đề nghị nhận chuyển giao theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán độc lập; đáp ứng các tỷ lệ bảo đảm an toàn quy định tại Điều 130 của Luật này; có phương án chuyển giao bắt buộc khả thi, trong đó bao gồm nội dung chứng minh bên nhận chuyển giao có đủ nguồn vốn để thực hiện góp vốn theo phương án.
Đồng thời, bên nhận chuyển giao không phải là TCTD phải đáp ứng các điều kiện sau đây: Là pháp nhân; đáp ứng các điều kiện quy định tại điểm a và điểm c khoản 1 Điều này.
Như vậy, theo quy định của pháp luật nêu trên, quyền lợi của người gửi tiền sẽ được giải quyết ra sao?
Đối với các ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc, đã được NHNN lựu chọn cũng sẽ được những ưu đãi như miễn giảm về thuế trong thời gian thực hiện nhận chuyển giao; ưu đãi về cơ cấu nguồn vốn, các hỗ trợ về thanh khoản cũng như quyền tổ chức tái cấu trúc, tái cơ cấu hoạt động ngân hàng được chuyển giao; được NHNN xem xét nới chỉ số về an toàn vốn và các ưu đãi khác trong một thời gian nhất định để sớm ổn định hoạt động hiệu quả.
Cụ thể, theo quy định tại Điều 151e, Luật Các TCTD, bên nhận chuyển giao là TCTD có các quyền như:
Được sở hữu 100% vốn điều lệ của ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc đối với trường hợp ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; có thể không thực hiện hợp nhất báo cáo tài chính của ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc;
Được loại trừ ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc khi tính tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất; khoản vốn góp vào ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc không phải thực hiện trích lập dự phòng giảm giá các khoản đầu tư và được loại trừ khi tính giới hạn góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng nhận chuyển giao;
Được bán, phát hành cổ phần của TCTD nhận chuyển giao cho nhà đầu tư nước ngoài phù hợp với phương án chuyển giao bắt buộc đã được phê duyệt; được áp dụng một hoặc một số biện pháp hỗ trợ quy định tại Điều 148b của Luật CTCTD theo phương án chuyển giao bắt buộc đã được phê duyệt.
Đối với ngân hàng bị chuyển giao, theo quy định thì kể từ thời điểm NHNN ra quyết định chuyển giao bắt buộc, toàn bộ quyền và lợi ích của chủ sở hữu, thành viên góp vốn, cổ đông của ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc sẽ chấm dứt.
Còn đối với tiền gửi của khách hàng, khi thực hiện chuyển giao, ngân hàng nhận chuyển giao sẽ tiếp nhận toàn bộ các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng bị chuyển giao, bao gồm cả các khoản cho vay, tiền gửi của khách hàng, các nghĩa vụ nợ khác. Ngân hàng nhận chuyển giao sẽ phải có trách nhiệm đối với các khoản tiền gửi và khoản vay mà ngân hàng bị chuyển giao vay của tổ chức tín dụng khác.
Đối với Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, với chức năng nhiệm vụ được giao (theo Luật Bảo hiểm tiền gửi) sẽ luôn theo sát diễn biến của quá trình chuyển giao, thực hiện giám sát hoạt động của ngân hàng nhận chuyển giao để cảnh báo những rủi ro có thể xảy ra, báo cáo cơ quan quản lý để kịp thời chấn chỉnh, góp phần cho hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả.
Như vậy, theo quy định của pháp luật như đã nêu ở trên, người gửi tiền hoàn toàn yên tâm khi Nhà nước tiến hành chuyển giao bắt buộc các ngân hàng yếu kém. Ngân hàng nhận chuyển giao sẽ chịu trách nhiệm với các khoản tiền gửi của khách hàng, bao gồm nghĩa vụ chi trả 100% số tiền gửi đã gửi vào ngân hàng phải chuyển giao bắt buộc trước đây.