Trải nghiệm đột biến rút tiền gửi
Lịch sử ngân hàng thế giới đã ghi lại hậu quả nghiêm trọng của nhiều cuộc khủng hoảng ngân hàng gắn liền và bị trầm trọng hơn bởi hiện tượng đột biến rút tiền gửi lan tràn, gây ảnh hưởng lớn tới hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Ở Mỹ, giai đoạn 1929-1933 và nhiều năm sau đó, đột biến rút tiền gửi và đổ vỡ ngân hàng đã gây dấu ấn bởi hậu quả nghiêm trọng của nó.
Ngày nay, với sự có mặt của thể chế bảo vệ người gửi tiền như chính sách bảo hiểm tiền gửi (BHTG), hiện tượng đột biến rút tiền gửi có xu hướng xảy ra lặng lẽ hơn nhưng vẫn được xếp là rủi ro hiện hữu và có ảnh hưởng lớn. Hệ thống ngân hàng nhiều quốc gia trên thế giới đã chịu ảnh hưởng nặng nề, dẫn đến phải đóng cửa do hiện tượng rút tiền hàng loạt xảy ra. Có thể kể đến ngân hàng quốc gia Franklin (FNB) ở Mỹ bị đổ vỡ năm 1974, Cục Dự trữ Liên bang phải cho vay 1,75 tỷ USD và với vai trò quan trọng của Tổng công ty BHTG Liên bang Mỹ (FDIC), quyền lợi người gửi tiền đã được đảm bảo, góp phần giúp việc rút tiền hàng loạt tại ngân hàng này giảm đi đáng kể. Tiếp đó là sự phá sản của ngân hàng Banco Ambrosiano tại Ý năm 1982 và đổ vỡ dây chuyền của nhiều ngân hàng ở Canada những năm 1985.
Khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 đã chứng kiến tình trạng đột biến rút tiền gửi từ ngân hàng tại tại nhiều quốc gia như Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia. Tiêu biểu là trường hợp của Indonesia khi khủng hoảng lòng tin đã dẫn đến đột biến rút tiền gửi tại 2/3 số ngân hàng tư nhân, chiếm 1/2 tổng số ngân hàng ở quốc gia này.
Sự kiện diễn ra ở Anh và Mỹ từ cuối năm 2007 tới nay cho thấy nhiều ngân hàng lớn đã trải nghiệm đột biến rút tiền gửi và gánh chịu hậu quả nặng nề. Ngày 14-17 tháng 9/2007, đột biến rút tiền gửi diễn ra tại ngân hàng Northern Rock (NR), ngân hàng cho vay tín chấp lớn thứ 5 tại Anh đã để lại chi phí lớn cho cổ đông của ngân hàng này, gây giảm giá cổ phiếu của nhiều ngân hàng khác. Theo đánh giá từ giới quan sát, hệ thống 72 chi nhánh ngân hàng này đã rơi vào tình trạng khủng hoảng chưa từng có trong lịch sử: khách hàng bủa vây đòi rút tiền, tổng số tiền bị rút khỏi ngân hàng này khoảng 4 tỷ USD chỉ trong vòng 4 ngày. Sau khi được Ngân hàng Trung ương Anh bơm tiền và các biện pháp trấn an người gửi tiền được thực hiện, Chính phủ Anh đã phải đứng ra bảo lãnh cho tiền gửi. Chi phí cho giải pháp mới nhằm cứu nguy NR ước tính khoảng 40-50 triệu bảng Anh, chiếm khoảng 10% lợi nhuận mục tiêu năm 2007 của NR. Giá cổ phiếu của NR, một số ngân hàng và tổ chức tài chính khác bị giảm nghiêm trọng.
Tùy thuộc vào qui mô đột biến rút tiền gửi để đánh giá hậu quả của nó. Đối với đột biến rút tiền gửi đơn lẻ, hậu quả chỉ giới hạn trong ngân hàng bị rút tiền đột biến, người gửi tiền và cổ đông. Ngược lại, đột biến rút tiền gửi ở qui mô hệ thống hậu quả sẽ rất trầm trọng, không chỉ dừng ở các đối tác như vậy mà còn ảnh hưởng tới nhiều đối tác khác trong nền kinh tế.
Khi đột biến rút tiền gửi, người gửi tiền sẽ phải gánh chịu các chi phí như: tiền lãi bị mất do rút trước hạn, chi phí chờ đợi rút tiền trong tình huống không bình thường, chi phí chuyển đổi đầu tư ... Nếu đẩy lên mức độ trầm trọng để có thể làm cho ngân hàng đó bị đổ vỡ. Bên cạnh đó, đột biến rút tiền gửi đơn lẻ nếu thành hệ thống có thể dẫn đến tình trạng đình trệ đầu tư tại nhiều ngân hàng, lạm phát, suy thoái kinh tế.
Giải pháp giảm thiểu và kiểm soát đột biến rút tiền
Có thể nói, việc kinh doanh thiếu hiệu quả, rủi ro cao là mấu chốt làm suy yếu và đổ vỡ ngân hàng. Bên cạnh đó, niềm tin của người gửi tiền là một trong số yếu tố quan trọng quyết định thành công và thất bại của ngân hàng. Chính sách BHTG là giải pháp có ưu điểm nổi trội trong củng cố và duy trì niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, đồng thời góp phần hạn chế tối đa hiện tượng đột biến rút tiền gửi.
Bên cạnh đó, việc giải quyết tình trạng đột biến rút tiền gửi tùy thuộc vào nội dung chính sách BHTG từng quốc gia quốc gia. Ví dụ: mô hình chính sách BHTG ở Mỹ thiết kế theo hình thức giảm thiểu rủi ro và FDIC được trao quyền năng rộng trong giải quyết ngân hàng có vấn đề, hạn mức chi trả bảo vệ quyền lợi người gửi tiền ở mức độ cao trong khi tại Anh, chính sách BHTG thiết kế theo mô hình chức năng hẹp, chủ yếu làm chức năng chi trả tiền bảo hiểm, mức độ bảo vệ quyền lợi người gửi tiền với hạn mức chi trả chưa đủ lớn…
Một số quốc gia sau thời gian triển khai chính sách BHTG đã có những thay đổi, cải tiến nhất định, dần chuyển sang mô hình chính sách giảm thiểu rủi ro với chức năng rộng, được giao quyền và trách nhiệm giải quyết ngân hàng có vấn đề, tiêu biểu là tại Anh, chính sách BHTG đã được điều chỉnh như: nâng cao hạn mức trả BHTG, đảm bảo tính kịp thời trong xử lý chi trả, cho phép FSCS tham gia xử lý hiệu quả tài sản của ngân hàng đổ vỡ để tiếp tục chi trả phần tiền gửi trên hạn mức chi trả bảo hiểm, có cơ chế chia sẻ thông tin giữa các tổ chức giám sát ngân hàng trong đó có tổ chức BHTG, cải thiện, nguồn vốn của FSCS và có cơ chế hỗ trợ trong tình trạng đặc biệt và khẩn cấp.
Để xử lý tình trạng đột biến rút tiền hàng loạt, bài viết xin tập hợp một số giải pháp sau:
Thứ nhất, Do đột biến rút tiền gửi để lại hậu quả lớn cho nhiều đối tác và đối tượng chịu tổn thất đầu tiên là người gửi tiền. Chính vì vậy, để giảm khả năng này, suy xét và ứng xử thận trọng trước thông tin thất thiệt về ngân hàng nơi gửi tiền sẽ giúp giảm được chi phí không đáng mất, giúp ngân hàng khắc phục được khó khăn (nếu có), tạo điều kiện cho các cơ quan chức năng triển khai thuận lợi các thể chế bảo vệ người gửi tiền, thúc đẩy hoạt động ngân hàng an toàn và hiệu quả.
Thứ hai, Đột biến rút tiền gửi mặc dù không phải là nguyên nhân chủ yếu và duy nhất dẫn tới đổ vỡ ngân hàng nhưng là yếu tố cộng hưởng, trở nên phức tạp và có ảnh hưởng nghiêm trọng trong tình huống xảy ra ở nhiều ngân hàng. Mỗi ngân hàng cần có những bước chuẩn bị thích hợp để chủ động phòng tránh và kiểm soát tình huống đột biến rút tiền gửi. Nỗ lực hoạt động an toàn và hiệu quả, minh bạch thông tin, có giải pháp thích hợp kiểm soát thông tin, tổ chức tư vấn thông tin bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và phối hợp triển khai chính sách BHTG một cách đầy đủ v.v là các hoạt động được khuyến nghị triển khai nhằm hạn chế khả năng phát sinh đột biến rút tiền gửi.
Thứ ba, Tình trạng ngân hàng hoạt động yếu kém dưới mức chấp nhận của thị trường dẫn tới mất khả năng thanh toán, rút khỏi lĩnh vực kinh doanh ngân hàng là giải pháp được áp dụng để nhường chỗ cho sự ra đời ngân hàng mới, kinh doanh hiệu quả, phục vụ cho sự phát triển của các đối tác và nền kinh tế được thịnh vượng. Để tình huống này diễn ra có trật tự, đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, các chủ nợ có liên quan và không ảnh hưởng tới các ngân hàng đang hoạt động bình thường, các thiết chế liên quan bao gồm giải quyết ngân hàng có vấn đề, cần được xây dựng đồng bộ, cần thể hiện vai trò, trách nhiệm của tổ chức triển khai chính sách BHTG.
Thứ tư, Đột biến rút tiền gửi cùng với sự đổ vỡ ngân hàng hàng loạt là nguyên nhân thôi thúc triển khai, cải tiến và chuẩn hóa chính sách BHTG ở nhiều quốc gia trên thế giới. Triển khai hiệu quả chính sách BHTG hướng tới xử lý ngân hàng có vấn đề, có chức năng giám sát hoạt động ngân hàng, thông qua đó thực hiện chức năng bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền sẽ góp phần tích cực trong việc kiểm soát và hạn chế hiện tượng đột biến rút tiền gửi và đổ vỡ ngân hàng. Điều này được thể hiện qua thành công trong triển khai chính sách BHTG ở Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản. Ngược lại, nếu đơn thuần triển khai chính sách BHTG theo mô hình tổ chức chi trả tiền bảo hiểm, việc kiểm soát đột biến rút tiền gửi và giải quyết ngân hàng có vấn đề sẽ phức tạp, tốn kém và không hiệu quả. Điều này được minh chứng bằng những trải nghiệm khó khăn mà nước Anh đã trải qua trong việc giải quyết đột biến rút tiền gửi tại ngân hàng Northern Rock.
Có thể khẳng định đột biến rút tiền gửi ngân hàng là vấn đề nhạy cảm và khó khăn, có thể xảy ra ngay từ khi hoạt động ngân hàng còn sơ khai và có khả năng tái diễn trong quá trình phát triển ở mức độ cao hơn. Đột biến rút tiền gửi thôi thúc sự ra đời, cải tiến và phát triển hoạt động BHTG. Cùng với chính sách BHTG công khai được triển khai hiệu quả, thể chế thiết lập và duy trì tính tự giác chấp hành kỷ cương thị trường cần được triển khai đồng bộ để kiểm soát và vô hiệu hóa cơ hội phát sinh rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, trong đó có rủi ro gây nên đột biến rút tiền gửi.
Tài liệu tham khảo
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, 2008, Báo cáo nhanh tình hình Kinh tế - Ngân hàng - Tài chính tháng 5-6/2008
Dwyer. G. P., Jr. & Gilbert. R. A. (May/June 1989), Bank runs and private remedies, Federal Reserve Bank of St. Louis
Federal Deposit Insurance Corporation, 1984, The First Fifty Years: A History of the FDIC 1933-1983
Heffernan S. (2005), Modern Banking, John Wiley & Sons, Ltd., ISBN 0-470-09500-8
http:yume.vn/manbayfc/article/dan-latvia-do-xo-rut-tien-vi-tin-don- 35cdbbbc.html (net 7)
IADI (2003, 2007), International deposit for commercial banks
Kaufman. George G. (Winter 1988), Bank runs: causes, benefits, and costs, Cato Journal, Vol.7, No.3
Kim Thành - Vụ CSTT, “Thấy gì từ cuộc khủng hoảng tín dụng dưới tiêu chuẩn ở Mỹ? 4/10/2007.
Mai Phương, 2009, Thêm hai ngân hàng Mỹ lâm nạn, 23/5/2009, báo điện tử Vnexpress
McDill. Kathleen M. & Sheehan. Kevin P. (November 2006), Sources of historical banking panics: A Markov Swiching Approach, FDIC Working paper series, working paper No.2006-01
Temzelides T. (November/December 1997), Are bank runs contagious, Federal Reserve of Philadelphia, Business Review Update 1-Northern Rock jumps over 40 pct as fund buy in. www.reuters.com (Oct 10, 2007), (net 3).