Ông Phạm Tiến Dũng |
Fintech là một khái niệm tương đối mới mẻ đối với thị trường tài chính Việt Nam, được hình thành trên cơ sở kết hợp giữa công nghệ và tài chính. “Những người chơi mới” này mang lại những thách thức gì với ngân hàng và các tổ chức tài chính? Phóng viên Thời báo Ngân hàng đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Tiến Dũng, Vụ trưởng Vụ Thanh toán - NHNN xung quanh vấn đề này.
Theo ông Fintech có thể tác động như thế nào đến các ngân hàng?
Nhiều khách hàng đang có xu hướng trải nghiệm, sử dụng sản phẩm, dịch vụ Fintech thay cho các sản phẩm, dịch vụ truyền thống của ngân hàng với những lý do chính như: sản phẩm, dịch vụ Fintech đem lại trải nghiệm cho người dùng tốt hơn, nhiều tiện ích hơn; sản phẩm, dịch vụ Fintech có chi phí hợp lý hơn ngân hàng truyền thống.
Còn nếu xét Fintech dưới góc độ là một tập hợp sản phẩm, dịch vụ từ nhiều công ty Fintech khác nhau, Fintech đem lại cho khách hàng khả năng lựa chọn phong phú, đa dạng, hợp nhu cầu cá nhân hơn so với sản phẩm, dịch vụ của một ngân hàng truyền thống.
Đứng trước thách thức này, các ngân hàng sẽ phải có những thay đổi lớn về mặt công nghệ lẫn dịch vụ khách hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày một cao hơn, đa dạng hơn của khách hàng.
Các ngân hàng sẽ phải chú trọng hơn cho việc đầu tư, nâng cấp hạ tầng cơ sở công nghệ mới thay thế cho các hệ thống công nghệ cũ (legacy systems) cũng như cải tiến, tối ưu hóa các quy trình nghiệp vụ hiện hành. Họ cũng có thể chọn phương thức chủ động liên kết, hợp tác với những công ty Fintech nhằm tận dụng những ưu thế sẵn có về công nghệ, cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh tinh gọn của những công ty này... nhằm cung cấp những sản phẩm, dịch vụ chất lượng với giá cả hợp lý tới khách hàng.
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của Fintech thời gian qua đòi hỏi các ngân hàng truyền thống phải tư duy lại, thay đổi mô hình kinh doanh và phương thức hoạt động truyền thống của đơn vị mình. Với sự phổ biến của điện thoại thông minh (smartphone) và thói quen sử dụng thiết bị di động trong mọi mặt cuộc sống hàng ngày, cách thức tiếp cận, sử dụng dịch vụ ngân hàng của khách hàng cũng đã có sự thay đổi rõ rệt.
Theo thống kê từ khảo sát của Hãng tư vấn Accenture, ngày nay các khách hàng thường có xu hướng giao dịch qua các kênh Mobile Banking, Internet Banking hơn là qua địa điểm vật lý như chi nhánh, quầy giao dịch. Chính sự thay đổi này đã khiến các ngân hàng suy nghĩ lại về chiến lược kinh doanh, mô hình hoạt động của mình.
Vì thế trong tương lai, tôi cho rằng các ngân hàng sẽ phải đối mặt với nguy cơ giảm bớt số lượng chi nhánh, chuyển hóa dần vai trò của ngân hàng từ thực hiện giao dịch sang tư vấn dịch vụ phù hợp nhu cầu khách hàng, hướng tới nghiên cứu và xây dựng mô hình ngân hàng số/ngân hàng không chi nhánh (digital banking/branchless banking) vận hành hiệu quả hơn, cung cấp trải nghiệm tốt hơn, phù hợp hơn với từng đối tượng khách hàng.
Cùng với xu hướng giảm dần về số lượng chi nhánh, nhân sự ngành Ngân hàng trong thời đại công nghệ số cũng sẽ phải đối mặt với nhiều sự thay đổi. Dễ nhận thấy nhất là việc ngân hàng có thể sẽ phải giảm bớt lượng nhân viên tại các chi nhánh, thay đổi vai trò của những giao dịch viên truyền thống (transaction-based roles) trở thành các tư vấn viên (advisory-based roles).
Bên cạnh đó, các ngân hàng sẽ hướng sự chú ý của mình tới đối tượng là nhân viên cao cấp, có khả năng giải quyết các vấn đề về cả tài chính lẫn công nghệ, đặc biệt là các nhân viên có trình độ cao về công nghệ. Với xu thế công nghệ đóng vai trò ngày một lớn, việc sở hữu các nhân viên công nghệ thông tin có trình độ cao, tinh thông nghiệp vụ sẽ là lợi thế cạnh tranh mà bất kỳ ngân hàng nào cũng mong muốn.
Vậy ngân hàng nên ứng xử ra sao trong mối quan hệ với các công ty Fintech?
Như tôi đã nói, các công ty Fintech mặc dù có ưu thế về công nghệ, mô hình kinh doanh sáng tạo, đột phá dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin, nhưng lại ít kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, hệ thống kiểm soát tuân thủ nội bộ không đủ mạnh…
Trong khi đó, các ngân hàng truyền thống lại có thế mạnh về mạng lưới, cơ sở khách hàng, nguồn nhân lực nhiều kinh nghiệm, hạ tầng công nghệ thông tin vững mạnh và nền tảng thanh toán được đầu tư lớn, bài bản…
Chính vì vậy, sự kết hợp giữa hai chủ thể trên sẽ rất có lợi, tạo ra sức mạnh tổng hợp thúc đẩy sự phát triển của thị trường, các dịch vụ - ngân hàng qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của tổ chức ngân hàng - tài chính và góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng.
Do đó, các ngân hàng cần thay đổi tư duy, quan điểm về Fintech, không nên coi Fintech là những “đối thủ” cạnh tranh trong việc giành thị phần khách hàng mà cần hướng tới sự hợp tác đôi bên cùng có lợi với Fintech. Sau một thời gian e dè, thận trọng, việc ngân hàng bắt tay với Fintech để biến Fintech trở thành cánh tay nối dài, đưa sản phẩm, dịch vụ tới những đối tượng chưa hoặc khó tiếp cận dịch vụ ngân hàng (unbanked) sẽ đem lại những trải nghiệm tốt, tiện ích và giá trị cho khách hàng, đồng thời hỗ trợ đắc lực cho phổ cập tài chính (Financial Inclusion) sâu rộng hơn.
Với vai trò là cơ quan quản lý, NHNN đã, đang làm gì để tạo điều kiện cho việc phát triển mối quan hệ giữa ngân hàng và các công ty Fintech, thưa ông?
Các tổ chức trung gian thanh toán, được coi là Fintech về lĩnh vực thanh toán đã xuất hiện tại Việt Nam khá lâu từ trước năm 2010, lĩnh vực Fintech tại Việt Nam vẫn mới ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của Fintech đối với khu vực ngân hàng - tài chính và tiềm năng phát triển của lĩnh vực này ở Việt Nam, cùng với chủ trương hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp theo Quyết định 844/QĐ-TTg ngày 18/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ, ngày 16/3/2017, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 328/QĐ-NHNN thành lập Ban Chỉ đạo về lĩnh vực Fintech tại NHNN.
Trên cơ sở phân tích các lĩnh vực, nghiệp vụ liên quan đến Fintech, qua khảo sát đánh giá thực trạng, cũng như thông qua đối thoại, trao đổi trực tiếp với các DN Fintech trong nước, Ban Chỉ đạo Fintech tại NHNN đã xác định nhiệm vụ quan trọng nhất trước mắt là xây dựng khung pháp lý cho lĩnh vực Fintech, trong đó tập trung vào một số lĩnh vực chính như: sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp lý cho hoạt động của các công ty cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về các khía cạnh trong lĩnh vực Fintech như công nghệ chuỗi khối (Blockchain); nền tảng huy động vốn và cho vay ngang hàng (P2P lending); kết nối, chia sẻ dữ liệu mở qua ứng dụng (Open API); nhận diện, định danh khách hàng điện tử (e-KYC/e-ID)…
Chúng tôi đã tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc về mặt pháp lý đối với từng vấn đề cũng như nhận biết những rủi ro tiềm ẩn có thể phát sinh trong từng lĩnh vực, từ đó đưa ra những định hướng phát triển hợp lý và dần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam.
Với định hướng như vậy, trong thời gian tới, khuôn khổ pháp lý về lĩnh vực Fintech sẽ được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một cách rõ ràng và minh bạch hơn, hỗ trợ cho hoạt động và sự phát triển lành mạnh, đúng định hướng chính sách của các công ty Fintech.
Nhiều quốc gia đã xây dựng và thiết lập khuôn khổ pháp lý thử nghiệm. NHNN đã có nghiên cứu và động thái gì đối với việc đi theo xu hướng này?
Như đã đề cập ở trên, NHNN đã thành lập Ban Chỉ đạo Fintech NHNN với nhiệm vụ nghiên cứu và xử lý những vấn đề liên quan đến khuôn khổ pháp lý, hoàn thiện hệ sinh thái Fintech ở Việt Nam, đảm bảo sự phát triển lành mạnh, hài hòa của hệ thống ngân hàng, cũng như tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DN Fintech, phù hợp với chủ trương và định hướng của Chính phủ.
NHNN đã xác định mục tiêu ưu tiên triển khai thời gian tới là tập trung xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý cho các công ty Fintech hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng; đồng thời bổ sung, sửa đổi quy định của ngành Ngân hàng nhằm tương thích với môi trường số và sự phát triển ngày một mạnh mẽ của các DN Fintech.
Trong khi đó, với những giải pháp, nghiệp vụ mới của các công ty Fintech mà khung khổ pháp lý hiện hành chưa quy định, điều chỉnh, NHNN cũng đã báo cáo, trình Thủ tướng Chính phủ cho phép nghiên cứu, áp dụng phương thức quản lý theo khung khổ pháp lý thử nghiệm (regulatory sandbox) phù hợp với thực tiễn, thông lệ quốc tế, tiến tới việc ban hành khung khổ pháp lý và quản lý chính thức.
Xin cảm ơn ông!